Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Buổi vấn linh tại Dungkar Gompa

28/05/201318:50(Xem: 9864)
Buổi vấn linh tại Dungkar Gompa
Con Đường Mây Trắng


Buổi Vấn Linh Tại Dungkar Gompa

Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Anagarika Govinda. Nguyễn Tường Bách dịch


Trong lần thăm viếng đầu tiên tại Dungkar, Li Gotami và tôi từng trầm trồ vẻ đẹp của ngôi đền vấn linh với ngai mạ vàng, hình tượng ma quỉ và các bức bích họa tuyệt diệu. Thế nhưng chúng tôi không được nghe sự giải thích nào về các chức năng của chúng, cũng không rõ vị tu sĩ vấn linh có ở trong đền hay không và dịp nào thì ông mới làm lễ. Chúng tôi có cảm giác rằng vị tu sĩ trẻ tuổi đưa đi xem đền không muốn nói tới những điều này và vì hồi đó chúng tôi mới đến và ông cũng chưa biết rõ chúng tôi lắm, nên ông giữ im lặng, tuân thủ nội qui trong việc thờ cúng ma quỉ.

Vì có nhiều điều phải làm khác chiếm hết sự chú ý của mình nên chúng tôi cũng không gấp. Chúng tôi được vị tu viện trưởng và các thành viên trong đền tiếp đón nồng hậu nên nghĩ rằng với thời gian, sẽ không có gì mà họ không chia sẻ cho chúng tôi. Vị sư trưởng vui thích vì tìm thấy nơi tôi bạn đồng môn, ông cũng là một học trò của Tomo Géché Rimpotsché. Ông muốn chúng tôi khi trở về từ trung Tây Tạng phải lưu lại một thời gian lâu tại Dungkar. Chúng tôi vui mừng nhận lời mời vì thấy rằng tâm thức của Tomo Géché vẫn còn sống động nơi đây. Điều này hiện rõ trong sự ân cần của tu sĩ, sự thứ tự sạch sẽ trong khắp tu viện, tu sĩ sống kỷ luật mà không khắt khe, cũng như sự lễ độ của mọi người đối với nhau, không kể đẳng cấp hay tuổi tác. Mọi trách nhiệm tôn giáo đều được thực hiện chu đáo, mỗi người ai cũng có công việc của mình và trẻ con đến học nơi đây đều tỏ ra vui vẻ, tinh tấn, chứng tỏ chúng được đối xử tử tế. Thỉnh thoảng chúng tôi thấy Lobonla, tên của vị sư trưởng, chậm rãi di dạo với chiếc dù trong tay; và
khi thấy trẻ con đứa nào nhớ nhà, ông lại vỗ về an ủi chúng. Riêng sức khỏe của Lobonla không mấy tốt và vì bệnh phong thấp mà ông nhấc thân mình nặng nề của mình một cách khó khăn.

Vì thế mà chúng tôi càng cảm động khi trở về được Lobonla và một nhóm những tăng sĩ lớn tuổi tiếp đón. Mặc dù không có sức leo cầu thang (bậc thang ở Tây Tạng thường rất dốc), ông vẫn nhất định leo theo chúng tôi lên tới phòng thờ riêng dành cho trên tầng trên và tiếp đãi chúng tôi với bánh và trà.

Đến lễ cầu nguyện lớn, mọi người từ các lũng lân cận tràn về tham dự, các tu sĩ lo chuẩn bị nghi lễ sẽ được cử hành buổi tối và suốt đêm. Buổi sáng các vị tu sĩ làm lễ pratimoksa (sám hối) trong chính điện, lễ này chỉ dành riêng cho một số người, chúng tôi ở lại trong phòng thờ.

Khoảng giữa trưa chúng tôi nghe tiếng rền từ Tschukyong Lhakhang dội vào và thấy một đám đông người chen chúc trước cửa đền vấn linh. Rõ ràng là sắp có lễ lớn và vì đoán thậm chí sắp có vấn linh, chúng tôi chạy nhanh xuống sân, chen chúc vào đám người. Chúng tôi bị đẩy dần lên đền và cuối cùng thấy mình trong chính điện đầy người và khói nhang. Không biết sao chúng tôi lại đứng ngay trước ngai của vị đại vấn linh.

Thật kỳ diệu và bất ngờ, nên chúng tôi nhìn như dán vào dáng hình sang trọng của người mặc áo lụa, ngồi trên ngai vàng trước mặt chúng tôi và mang trên đầu một vương miện vàng nạm ngọc. Trên ngực có một tấm gương kim loại sáng loang loáng, trên vành gương có khắc mẫu tự HRIH thiêng liêng. Như hình ảnh của một vị đại đế thời xưa, một bậc đầy quyền uy, toát ra mọi dấu hiệu của uy lực, hình dạng người này xuất hiện đối với chúng tôi như một siêu nhân.

Bỗng dàn nhạc với chiêng trống xập xỏa lên tới đỉnh cao tột độ cùng với tiếng niệm chú rì rầm của dàn tu sĩ, hô triệu các vị hộ pháp, tiếng tụng kinh kèm theo tiếng chuông. Từng đám mây hương bốc lên từ những bình đựng trầm và khán giả đứng như trời trồng trong buổi lễ. Tất cả các cặp mắt đều dán lên người ngồi trên ngai, người đó như một bức tượng nhắm mắt ngồi bất động, chân để trong hai chiếc giày cúng, nằm yên trên sàn.

Đột nhiên người đó có một sự rung động từ dưới đất thoát lên, nó chiếm lấy hai chân, tăng cường sức lực, chiếm dần thân thể, rồi cuối cùng toàn thân rung lên như điện giật. Hầu như có một dòng diện ghê gớm đi từ lòng đất, tràn ngập thân thể gần như muốn nổ tung người đó. Cuộc chiến đấu của một bên là thân người, bên kia là một uy lực bí ẩn muốn chiếm lấy nó và biến nó thành quỉ thần thật đáng sợ. Các nét trên khuôn mặt cũng thay đổi hoàn toàn, biến thành một con người khác, đúng hơn là thành một vị thần hung nộ.

Khi đó, một trong những tu sĩ lớn tuổi nhất, vị chủ lễ, lên bục đến gần ngai để trình các câu hỏi nhờ vị thần trả lời. Các câu hỏi trước đó đã được viết lên giấy, xếp chặt lại. Vị chủ trì buổi lễ cầm giấy lắc qua lắc lại trước con mắt thần vấn linh, trong lúc một số tu sĩ khỏe mạnh khác đỡ và giữ thân theo đúng vị trí. Thế nhưng vị chủ trì chưa kịp đi lui thì thần vấn linh - như một người khổng lồ vừa tỉnh giấc - nhảy dựng lên, đẩy đám tu sĩ đỡ mình qua một bên, cầm lấy một thanh kiếm trên giá để trước mặt và múa với một vận tốc khủng khiếp, hầu như chiến đấu chống lại một địch thủ vô hình. Thật là một cảnh tượng đáng sợ làm tất cả mọi người như bị buộc vào một vũ điệu thác loạn của sự tàn phá, của một sức mạnh ma quái, trong đó không ai ngại lưỡi kiếm có thể sút tay văng vào người.

Những người đứng gần ngai đi lui vài bước, còn năm sáu tu sĩ mạnh mẽ được lựa chọn từ trước ra sức kéo thần vấn linh lui về ngai. Vị tu sĩ vấn linh xem ra không để ý và xua đuổi các vị kia như một đám trẻ con cho tới lúc họ đưa được con người khổng lồ đó về lại ngai sau nhiều lần cố sức. Ông ngồi gục xuống, thở nặng nề, mồ hôi đầm đìa trên mặt, miệng sùi bọt mép, phát ra tiếng ú ớ, dường như muốn nói điều gì.

Vị chủ lễ bước đến, tay cầm một tấm bảng, ông cúi xuống bên cạnh vị tu sĩ vấn linh và viết những gì nghe được lên bảng. Lúc diễn ra thông điệp của vấn linh cũng là lúc của sự im lặng trân trọng, chỉ có tiếng tụng kinh rì rầm vọng lên. Mặc dù sức mạnh dữ dội của quỉ thần trong tu sĩ vấn linh đã giảm nhưng sự hiện diện của nó hầu như ngự trị toàn diện, chiếm lấy mọi suy tư cảm xúc của mọi người tham dự nên tất cả lại đến gần ngai, phủ phục xuống chân để tỏ lòng kính mộ và xin phước lành. Chúng tôi cũng có cảm giác như tâm mình được nâng lên và bị chiếm lĩnh sâu xa, nên cũng quì lạy vị vấn linh, quên hết mọi chuyện, chỉ còn thấy thực tại của một năng lực nằm ngoài hiểu biết của mình.

Vị tu sĩ chầm chậm đứng lên, các tu sĩ khác vội đỡ. Một tách trà được dưa đến, vị đó uống một ít. Tiếng tụng kinh vẫn rì rầm không dứt, tiếng chiêng trống chậm lại; đám đông đã bớt căng thẳng.

Không bao lâu sau tiết điệu nhạc lễ lại dồn dập, giọng tụng kinh khẩn thiết hơn, vị tu sĩ lại rơi vào trạng thái xuất thần. Ông bị một vị thần khác trong sáu vị thần chiếm lĩnh, được biết qua món vũ khí ông cầm lấy trong lúc xuất thần.

Tôi không nhớ rõ mình đã tham dự bao nhiêu lần xuất thần cũng không biết bao nhiều lần đã xảy ra trước khi vào điện. Tôi chỉ biết tất cả sáu vị, vị này sau vị kia, đã chiếm lĩnh vị tu sĩ để rồi ông nằm dài như một thây ma và cuối cùng được khiên ra khỏi điện. Làm sao một thân người mà chịu nổi lực khủng khiếp trong nhiều giờ liền, với trạng thái xuất thần đầy áp lực, điều đó tôi không hiểu. Điều chắc chắn là không ai chịu nổi nếu không ở trong trạng thái xuất thần và không ai dám chịu hiểm nguy giao thân mình cho một năng lực xa lạ nếu không tin nơi sự cần thiết và giá trị của hành động mình.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7489)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8400)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7172)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6080)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6986)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5284)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3965)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8488)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22887)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4606)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]