Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tụng đám

22/05/201311:11(Xem: 10382)
Tụng đám
Chuyện Bình Thường


Tụng Đám

Thích Chân Tính
Nguồn: Thích Chân Tính


Đang quét dọn chính điện chùa Bát Nhã, tôi chợt nhìn ra phía trước cổng chùa và thấy Diệu Hạnh đi vào một cách vội vã. Tôi hơi thắc mắc vì sự xuất hiện đột ngột của cô Phật tử này. Chắc có chuyện quan trọng lắm nên Diệu Hạnh mới đến chùa lúc trời còn đầy sương như vậy? Những câu hỏi đang được đặt ra trong đầu tôi, thì cô đã đến sát cửa chính điện.

- A Di Đà Phật, bạch thầy con mới qua.

Cô chắp tay cúi đầu chào. Tôi ngừng quét đáp lễ bằng câu niệm Phật. Qua lời nói và nhìn gương mặt đượm buồn của cô, tôi đoán ra có việc không may rồi. Tôi hỏi:

- Có chuyện chi không Diệu Hạnh?

Nghe tôi hỏi cô liền nấc lên vài tiếng rồi sụt sùi đáp với giọng đứt khoảng:

- Bạch thầy, mẹ con vừa mất đêm qua.

- Vậy hả?

Tôi bàng hoàng trước hung tin này và đứng lặng người chia sẻ nỗi buồn với cô. Trong khi ấy những giọt nước mắt thương đau của cô đang thi nhau lăn dài xuống nền hoa. Sau vài giây xúc động, tôi hỏi thăm nguyên nhân cái chết của thân mẫu cô. Nghe rõ đầu đuôi câu chuyện tôi khuyên cô hãy nén đau thương để dồn tâm sức lo tang lễ mẹ được chu tất. Cô cảm tạ sự quan tâm của tôi rồi thưa:

- Bạch thầy, ba con đã từ trần khi con còn nhỏ, nay mẹ con lại quá vãng, chúng con còn trẻ dại chưa rõ việc tang lễ như thế nào. Xin thầy hoan hỷ chỉ dạy cho.

Thôi rồi, đúng là một gánh nặng đặt lên vai mình đây! Tôi than thầm và ngẫm nghĩ: Chắc chắn từ chối là tôi không thể từ chối được rồi, bởi lẽ Diệu Hạnh và mẹ nàng là Phật tử thuần thành đã ủng hộ tôi từ hơn ba năm nay sau khi tôi lên thành phố ăn học và tạm trú tại ngôi chùa này. Vẫn biết rằng việc làm của họ không có ý mong cầu đến lúc chết được các thầy đến tụng niệm và đưa đám mà đó cũng là nhân và quả. Kẻ thi ân chân chính chẳng quan tâm đến việc cầu báo, nhưng người chịu ân lẽ nào không nghĩ đến hai chữ báo đền? Hơn nữa mình lại là tu sĩ, hằng ngày thường khuyên Phật tử nên lấy đạo lý làm người đối xử với nhau, lẽ nào bây giờ gia đình họ gặp hữu sự mình lại thờ ơ hoặc không có trách nhiệm gì vậy thì tình nghĩa thầy trò ở chỗ nào? Thế nhưng nhận lãnh thì biết gì mà chỉ dạy đây? Thú thật, khi còn ở với sư phụ vì là đệ tử út lại được làm thị giả thầy, nên mỗi lần có đám tang tôi đều viện cớ này lý nọ lẩn tránh để các huynh tôi lãnh giùm. Hơn nữa vì cái quan niệm “TRỌNG LÝ KHINH SỰ” của mình nên tôi coi thường việc cúng tụng đám ma và xem đó không phải là việc làm của tu sĩ đạo Phật. Do vậy tôi hoàn toàn mù tịt về vấn đề này. Bí quá, tôi đề nghị cô nên thỉnh thầy trụ trì chùa Bát Nhã đây, nhưng cô cứ một mực nhờ tôi với lý do là chỗ quen thân dễ dàng xử sự hơn. Thôi thì “thế thời phải thế” chứ còn biết làm sao khác hơn được.

Cô móc túi lấy ra tờ giấy ghi tên tuổi mẹ và ngày sinh ngày tử nhờ tôi coi giờ tẩn liệm, an táng. Tôi ấp a ấp úng:

- À, à, coi ngày giờ hả?

- Dạ, xin nhờ thầy xem giúp giùm con luôn.

Trời ơi, từ trước tới giờ tôi có biết chi đến việc xem ngày giờ tốt xấu gì đâu! Vả lại tôi đã từng lên án nó là mê tín không lẽ bây giờ lại nhúng tay vào? Không thể được, mình phải giữ lập trường trước sau như một. Tôi nhanh chóng phân tích cho cô hiểu về chính kiến trong Phật giáo. Rõ là có hiệu quả, trong lúc tôi giảng giải, cô gật gù ra vẻ tán đồng ý kiến. Khi tôi vừa dứt lời cô liền thưa:

- Bạch thầy hoan hỷ cho, chính con cũng rất hiểu về vấn đề này, nhưng vì trong lúc gia đình có tang, các em con tin tưởng ở ngày giờ, xin thầy cũng vì phương tiện mà cho chúng con một viên thuốc an thần.

Chà, kẹt quá! Tôi thấy mình cần phải giữ vững lập trường trong lúc này và đó cũng là lối thoát cho mình khỏi phải coi ngày giờ. Tôi ra sức thuyết phục, thế nhưng cô cũng ra sức phân trần. Cuối cùng...

- Thôi được, Diệu Hạnh về trước sắp đặt nhà cửa một lát nữa tôi qua thông báo ngày giờ.

Cô ra về. Tôi thơ thẩn đứng đó với bao ý nghĩ rối bời. Về việc coi ngày giờ thì tôi có thể nhờ thầy trụ trì đây được rồi. Còn vấn đề tẩn liệm, an táng sắp tới thì sao? Chả lẽ bây giờ mình lại đến “cầu pháp” với các huynh đệ mà trước đây mình đả kích? Thấy hành động như vậy sẽ tổn thương danh dự, tôi liền về phòng tính kế khác. Tôi chợt nhớ ra trước đây mình có một cuốn sách nói về nghi thức tụng đám. Mừng quá, tôi lao ngay vào các chồng sách lục lọi nhưng tìm mãi mà không thấy. Vốn có thành kiến với nó nên tôi đã hất hủi bỏ nó ở đâu không rõ nữa. Lúc này tôi cảm thấy tiêng tiếc mà thấm thía lời này: Đừng lãng phí những cái chưa cần để rồi mai đây ta khỏi hối hận khi cần đến nó.
¯
Đúng giờ nhập quan, tôi có mặt tại nhà Diệu Hạnh. Tuy không biết tí gì về nghi thức này nhưng tôi vẫn thấy vững tâm ở chỗ là ngoài tôi ra không có một thầy nào khác. Nhờ vậy mà tôi dễ dàng tự biên tự diễn hơn. Tay trái cầm ly nước trong, tay mặt cầm nhánh bông cúc, tôi đến cạnh thi hài vừa đọc bài Tán Dương Chi vừa nhúng cành bông vào ly nước rồi rải chung quanh xác chết và tôi cho đó là sái tịnh! Mặc cho con cái khóc la, việc mình mình làm, tôi nhanh chóng tụng chú Đại Bi, Bát Nhã, niệm Phật, hồi hướng. Thế là xong phần nhập quan. Có lẽ nhờ tiếng khóc la đó khiến tôi bớt trơ trọi và ít ai để ý đến nghi thức cúng tụng của mình. Trong lúc hành lễ tôi thấy một cậu thanh niên tuổi ngoài ba mươi phụ sắp đặt lễ nghi rất là thông thạo. Mặc dù thế dường như sợ múa rìu qua mặt thợ nên cậu ta nhất nhất làm cái gì cũng hỏi tôi. Qua cách bày biện tôi biết chính anh chàng là “thợ” chứ không phải là mình nên tôi cũng nhất nhất gật đầu tán thành.

- Bạch thầy, con thấy thường thường người ta để quả trứng và đôi đũa bông trên bát cơm đầy, đặt trên nắp quan tài. Bây giờ mình cúng chay thì thay quả trứng bằng củ khoai tây được không?

Tưởng anh chàng hỏi ý nghĩa về đôi đũa bông thì bí chứ còn hỏi việc đó tôi gật đầu đáp:

- Ờ, ờ, như vậy là tốt đó đạo hữu.

Bây giờ tôi cảm thấy vừa lo lại vừa mừng về sự hiện diện của cậu thanh niên này. Lo là mình không làm đúng, mừng là mừng có người sắp đặt giúp mình.

Sau khi tẩn liệm xong, anh cho người khiêng một bàn thờ đã dọn sẵn đến trước quan tài. Trên bàn thờ, bên trái là lọ bông huệ, bên phải là mâm trái cây, chính giữa là ba chén cơm với vài ba dĩa thức ăn, bên ngoài là lư hương và ba chiếc ly nhỏ để không. Anh dựng bốn chiếc đũa lên chén cơm đặt trên đầu quan tài: Một đôi ở giữa và hai chiếc mỗi chiếc một bên.

- Bạch thầy, con để vậy có đúng không?

- Tốt rồi đạo hữu.

Tôi định hỏi lại tại sao cúng ba chén cơm mà không để ba đôi đũa mà lại để bốn chiếc và tại sao không để nằm lại để dựng đứng ở đầu quan tài. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại đáng lẽ Phật tử hỏi mình thì mới phải, chứ ai đời Thầy lại đi hỏi Phật tử, như vậy làm sao mà “thống lĩnh đại chúng” cho được.

- Bạch thầy, bây giờ cúng cơm trước hay làm lễ thành phục trước?

Cái gì? Lễ thành phục? Mình có nghe lầm không nhỉ? Tôi liền hỏi lại và anh ta đáp y xì như trước. Thật vậy sao? Lễ thành phục? Tôi ngẫm nghĩ xem nó là cái lễ gì mà nghe lạ tai quá. Trong lúc chờ đợi tìm ra câu giải đáp, tôi quyết định:

- Cúng cơm trước, lễ thành phục sau.

Anh vội vào nhà trong lấy ra một ấm nước trà và đặt lên bàn cạnh ba chiếc ly không. Thấy vậy tôi nói:

- Rót nước vào ly đi đạo hữu.

Anh quay lại nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Thầy không trà châm sơ tuần, nhị tuần, tam tuần à?

Có vụ này nữa sao ta? Bây giờ mình lỡ nói rót nước ra ly rồi thì phải giữ chữ tín, vả lại mình có rành nghi thức cúng cơm đâu mà biết lúc nào là trà châm sơ tuần, nhị tuần... Tôi liền biện bác:

- Rót một lần đầy ly để người chết uống cho đã khát, chứ mỗi lần rót chút chút một phiền mình mà vong phải chờ đợi tội nghiệp! Mình phải đổi mới tư duy chứ đạo hữu!

Anh chàng nhếch môi cười:

- Vậy có nghĩa là mình gắp thức ăn vào chén cơm cúng luôn khỏi phải tiến phạn?

- Đúng đấy đạo hữu.

Trong khi tụng kinh, tôi có cảm tưởng mình là chiếc máy radio, miệng đọc mà để đọc, chứ tâm trí thì đi đàng nào ấy. Ba chữ lễ thành phục cứ ám ảnh tôi mãi cho đến khi tụng sang phần niệm Phật rồi mà vẫn chưa tìm ra nó là lễ gì. Kẹt quá tôi đành phải kéo dài thời gian bằng cách đứng niệm Phật thật lâu. Lát sau cậu thanh niên mới bưng ra một cái mâm có đựng đồ tang và đặt trước bàn vong. Tôi “à” một tiếng vì đã tìm ra đáp số và thấy người mình nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng. Tôi thì thầm:

- Thì ra là lễ phát tang!

Đến lễ thành phục tôi thấy mình cần phải ứng dụng câu ‘tùy duyên biến hóa” trong thế bí này. Tôi nói:

- Mỗi người thắp một nén nhang khấn ngày tháng năm, tên họ mình nay xin thọ tang mẹ.

Trong lúc họ thì thầm khấn, tôi cũng lâm râm đọc thần chú, tay phải cầm ba cây nhanh vẽ lên đồ tang chữ ÁN to tướng. Sau khi thu nhang cắm vào lư hương, tôi nhắc mọi người lấy đồ tang mặc vào. Lúc ấy Diệu Hạnh thưa:

- Nhờ thầy phát tang cho tụi con.

Tôi lúng túng không biết phân biệt cái nào là của ai. Nhìn lên mâm đồ tang tôi thấy ngoài quần áo, khăn ra còn có một cái mũ bằng rơm được quấn bằng vải mùng trắng bên ngoài, vành tròn và có một đường cong ở giữa đỉnh đầu. Tôi đoán chắc mũ này là của người chị cả nên cầm lấy và trao cho Diệu Hạnh. Cô đưa tay lên định cầm thì cậu thanh niên can:

- Ấy, cái đó là của con trai.

Diệu Hạnh ngước nhìn tôi mỉm cười và cầm mũ trao cho đứa em trai. Mặt tôi hơi đỏ.

Trong lúc ngồi giải lao sau khi hoàn tất công việc, Diệu Hạnh đến bên tôi chắp tay thưa:

- Bạch thầy, hôm di quan mẹ con, nhờ thầy thỉnh giúp hộ con hai vị nữa.

Nghe lời yêu cầu của Diệu Hạnh tôi tán thành ngay.
¯
Tôi và hai thầy nữa đến nhà Diệu Hạnh trước khi động quan nửa giờ. Vừa đến cổng, tôi thấy cậu thanh niên bưng một cái mâm đặt trên chiếc ghế đẩu để trước cửa nhà. Trên mâm có một tấm triệu, một đĩa đựng: Một con tôm, một con cua, một miếng thịt, tất cả đều luộc chín có mầu đo đỏ, ba ly nước không, một ấm trà, một cặp đèn cầy nhỏ, vài cây nhang và một ít giấy vàng bạc. Tôi hỏi:

- Cúng cái gì vậy đạo hữu?

- Bạch thầy, cúng cáo đạo lộ ạ!

Cáo đạo lộ? Tôi nhướng mày nhìn và ngẫm nghĩ cúng cáo đạo lộ là cúng ai cà? Sau vài giây tìm hiểu tôi đoán có lẽ là cầu ông thần đất để ông phù hộ cho xe tang đi đường khỏi bị chết máy ẩu chứ gì! Rõ là người Việt Nam ta rất biết điều và lễ nghĩa đầy đủ quá!

Tới giờ làm lễ di quan, tôi cho mời tất cả tang quyến tề tựu trước quan tài. Lúc này tiếng thầy chủ sám vang lên:

- Tang chủ tựu linh tiền.

Tiếng thầy cất lên trầm bổng ngân nga làm mọi người đang ồn ào bỗng im phăng phắc. Dường như âm thanh của thầy đã lôi cuốn họ về với lời kinh tiếng kệ. Quang cảnh buổi lễ trở nên trang trọng lạ thường. Thầy xướng tiếp:

- Giai quỵ.

Lúc này tôi mới cảm được cái tác dụng của âm thanh. Một bản nhạc dù hay cách mấy mà người hát dở cũng chẳng hấp dẫn được thính giả. Nếu lời kinh là một bản nhạc tuyệt vời mà thầy tụng là ca sĩ giỏi thì chắc chắn sẽ dễ dàng thu phục nhân tâm quay về chính đạo. Tôi say sưa lắng nghe và trân trọng theo dõi nghi lễ cúng tụng của hai thầy. Lúc chấm dứt, thầy chủ sám xướng:

- Tang chủ khởi thân lễ tất tứ bái...

Nghe thầy xướng hay quá, tôi nhớ lại mình hôm qua, sau phần cúng cơm tôi nói gọn lỏn:

- Tang chủ lễ tạ bốn lễ.

Sau đó thầy chủ sám nhắc tôi mời các đạo tỳ vào làm lễ bái quan. Tôi thật thà nói:

- Đã tới giờ động quan, mời quý vị đạo tỳ vào làm lễ bái quan.

Thầy chủ sám nhìn tôi mỉm cười rồi xướng lại, giọng rất trầm hùng:

- Dịch giả tựu linh tiền tác lễ.

Biết mình làm không xong, tôi ghé tai thầy chủ sám nói:

- Nhờ thầy xướng giúp luôn.

Đợi các đạo tỳ làm lễ bái quan xong, thầy xướng tiếp:

- Triệt hạ linh tòa.

Họ nhanh chóng dọn dẹp tất cả những đồ trang trí chung quanh quan tài. Trước khi động quan, thầy chủ sám xướng:

- Thiên cửu tựu dư.

Quan tài được nhấc lên từ từ. Tôi và hai thầy niệm Phật dẫn đường, kế đó là cậu con trai bưng bát nhang, Diệu Hạnh theo sau bưng di ảnh mẹ, tiếp đến là quan tài. Đoàn người chậm chạp chuyển động. Tiếng niệm Phật ngân nga trầm bổng hòa với tiếng khánh nhịp mõ của thầy chủ sám vẫn có sức hấp dẫn tôi phải suy nghĩ về vấn đề nghi lễ cúng tụng của tu sĩ Phật giáo. Làm thế nào trong tinh thần tùy duyên hóa độ người mất này mà vẫn giữ được sự bất biến. Những suy nghĩ ấy đang cùng với đoàn người xa dần khởi điểm ...
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7484)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8390)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7164)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6079)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6976)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5282)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8487)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22856)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4603)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]