Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Nếu chẳng một phen

03/05/201311:33(Xem: 9242)
13. Nếu chẳng một phen
Bằng Tất Cả Tấm Lòng


13. Nếu Chẳng Một Phen

Thích Chân Tính
Nguồn: Thích Chân Tính

Đã lâu lắm rồi, tôi chưa có dịp vào Chợ Lớn. Hôm nay vì cần mua một vài món hàng tôi mới trở lại thành phố Hoa kiều này. Vừa đạp xe tôi vừa nhìn lên những tấm bảng trước các hiệu buôn dọc theo hai bên lộ. Nhà cửa sửa sang lại rất nguy nga tráng lệ với những bảng quảng cáo đa kiểu đa sắc viết bằng chữ Trung Quốc kèm theo chữ Việt Nam. Sau khi tìm mua được những món hàng cần thiết, tôi quay trở về chùa. Ra khỏi Chợ Lớn đến khu vực người Việt Nam buôn bán, tôi chợt nhìn thấy một tấm bảng với dòng chữ: "Tại đây có làm đồ mã". Tôi hơi ngạc nhiên và tự nghĩ: Chắc lúc này Nhà nước ta đã đổi mới tư duy nên cho buôn bán hàng mã công khai chăng? Nhưng khi nhìn xuống thì thấy những tấm mộ bia, những cây thánh giá và một số bàn ghế bằng đá mài, tôi mới rõ là họ làm đồ mồ mả chứ không phải hàng mã như chữ đã ghi! Thật là tai hại. Chỉ có dấu hỏi và dấu ngã của một chữ thôi cũng đủ làm thay đổi toàn bộ nội dung của câu. Vậy mà không hiểu sao, người Việt Nam lại sử dụng chữ Việt Nam một cách cẩu thả đến thế? Còn gì là niềm tự hào về trình độ học thức của dân tộc Việt Nam khi phô trương trước công chúng những cái sai sót lẽ ra không thể có ở cuối thế kỷ hai mươi này, tại một thành phố tiêu biểu cho nền văn minh tiến bộ! Dường như trường hợp này đã, đang và còn xảy ra rất nhiều trên đường phố, tại văn phòng, nơi hội trường, thậm chí cả đến sách báo và giấy tờ hành chính nữa.

Nhớ lại trước đây tôi cũng xem thường việc đánh dấu hỏi, ngã. Thật ra tôi viết chính tả ít khi bị sai, nhưng lúc đánh dấu thì lại rất cẩu thả. Tôi thường dùng dấu ngã đánh hơi đứng nghiêng lên làm thành dấu hỏi. Có lần làm bài kiểm tra môn Văn tại Phật học viện Thiện Hòa chùa Giác Ngộ do thầy Thích Minh Thành phụ trách, sau khi nhận bài với số điểm thấp và lời phê: "Nội dung bài khá, nhưng viết sai dấu nhiều". Tôi không đồng ý về lời phê này và lên khiếu nại. Tôi phân trần cho thầy rõ chữ này là hỏi, chữ kia là ngã v.v... Nhưng thầy cương quyết nói: "Hỏi ra hỏi, ngã ra ngã, không thể đánh gian như vậy được". Tôi ức quá, nhưng không làm sao thuyết phục được thầy đổi ý. Tháng đó bị thụt hạng một cách oan ức, tôi đành ngậm đắng nuốt cay về cố gắng tập viết lại cho cẩn thận. Lúc ấy tôi buồn thầy lắm, nhưng bây giờ tôi lại mang ơn thầy rất nhiều.

Từ việc này tôi liên tưởng đến sự kiện chứng Thánh quả của A Nan. Trong Kinh Pháp Hoa phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có hé mở cho chúng ta biết: "Trong kiếp quá khứ Ngài và A Nan cùng phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Do công phu tinh tấn Ngài đã thành tựu quả vị Bồ đề, còn A Nan thích đa văn nên vẫn cứ ôm giữ tạng pháp mãi. Đến khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt, ngài Ca Diếp đã hội họp Thánh chúng để kết tập kinh điển, trong đó có A Nan. Trước khi đại hội, Ca Diếp tuyên bố thẳng thừng nếu ai chưa chứng Thánh quả thì không được tham dự. Thật là một đòn chí tử giáng vào A Nan. Gần năm trăm vị Tỳ kheo lần lượt vào hết chỉ còn lại một mình A Nan ở ngoài. Nghĩ mình vừa là thị giả, vừa là em họ Phật, lại vừa là bậc đa văn đệ nhất nữa, thế mà bị loại khỏi hàng Thánh chúng, thử hỏi còn gì tủi hổ hơn! Đêm hôm đó A Nan buông bỏ tất cả, tinh tiến thiền định và hoát nhiên chứng ngộ. Sáng hôm sau ông mỉm cười ung dung bước vào đại hội trước sự ngạc nhiên của bao người.

Đúng như Thiền Sư Hoàng Bá Hy Vân đã nói:

"Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương".

3/91




CHÚ THÍCH
[1] Khi hơi thở còn thì lo tính đủ thứ
Lúc vô thường đến thì mọi việc cũng buông xuôi
[2] Không biết ba trăm năm sau ai là người khóc Tố Như (tên hiệu của Nguyễn Du)
[3] Thời điểm năm 1987

Mấy lời tâm huyết

Thuyết pháp giảng kinh, viết sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ. Được như thế công đức vô lượng, đó gọi là pháp thí.

Nếu không đủ điều kiện làm những việc ấy, thì thỉnh một số kinh sách chịu khó đem đến từng nhà cho mượn đọc, rồi sau đó lại lần lượt cho nhà khác mượn nữa, hoặc đọc cho kẻ khác nghe, nhất là cho người không biết chữ nghe, cũng được công đức vô biên, đó cũng gọi là Pháp thí.

Chính Đức Phật đã dạy: "Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thí là công đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng".

Tưởng về lợi cũng như về danh, chúng ta đừng lo nghĩ vội, mà điều tối cần là làm sao cho rạng rỡ chánh đạo trước cái đã. Đó là mục đích chính và thiêng liêng cao cả của chúng ta. Nền móng đạo pháp cần nhờ sự chung lưng góp sức của chúng ta. Vậy mỗi người nên xây đắp vào đó một ít vôi, một ít nước, hoặc một tảng đá hay một viên gạch v.v... ngõ hầu cái nền móng ấy được thêm bền vững và kiên cố đời đời.

Chúng ta không nên quan niệm ở công đức vô lượng vô biên, mà điều cần thiết là nên nghĩ nhiều đến những người lầm đường lạc lối, sống trong vòng đầy tội lỗi không có lối thoát, hãy mau cứu vớt họ, cảnh tỉnh họ để cùng quay về chân lý. Nếu được như thế chính ta đã làm lợi ích cho Phật pháp vậy.

Với hoài bão cuộc đời, chúng ta hãy "Tất Cả Vì Phật Pháp". Hy vọng mấy lời tâm huyết này được nhiều vị hảo tâm in kinh sách cho muôn dân xem.

Được như vậy công đức không gì sánh bằng! Tha thiết mong mỏi như thế!

Tặng cho thân nhân một số tiền nhỏ, lòng mình không vui.. Nhưng mình không đủ sức tặng nhiều hơn. Chỉ có một cách là tặng các loại sách tu hành để xây dựng cho đời sống thanh cao, thì dù một quyển sách giá chỉ có vài ngàn, nhưng vẫn còn quý hơn bạc vạn.

Quý vị nào muốn phát tâm ấn tống kinh sách xin liên hệ: CHÙA HOẰNG PHÁP, Xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh. ĐT: 7130002-7133827. Email: [email protected]
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 3943)
Khi tơi đang dịch “Nhân Kiếp và Tai Kiếp” (Human Life And Problems, do hịa thượng tiến sĩ K. Sri Dhammananda) vào giữa tháng 09/2001 tại Toronto thì bất ngờ được biết thầy Thích Tâm Quang bên Mỹ đã dịch xong với tựa đề là “Các Vấn Đề Của Xã Hội Hơm Nay” (web www.budsas.org)
29/03/2013(Xem: 10655)
Truyện “Quan Âm Thị Kính” không rõ xuất hiện từ thời nào và do ai sáng tác ra. Thoạt tiên truyện là một khúc hát chèo gồm nhiều đoạn, với ngôn từ rất bình dị và tự nhiên, rõ ràng là một khúc hát của dân quê, của đại chúng. Về sau mới có truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” xuất hiện, được viết bằng thể thơ “lục bát”, mang nhiều ý nghĩa thâm thúy của cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Người ta phỏng đoán rằng tác giả chắc phải là một người có học thức.
29/03/2013(Xem: 16787)
Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
29/03/2013(Xem: 9188)
Chuyến hành hương Thái Lan và Nhật Bản bắt đầu từ ngày 22 tháng 10 đến mùng năm tháng 11 năm 2012, vào một sáng mùa thu với nắng vàng ươm và se se gió lạnh. Có ai biết con số ghi tên tham dự chuyến hành hương Nhật Bản này lên đến bao nhiêu không? Trước giờ khóa sổ vào đầu tháng 10 là hơn một trăm vị, sau rút lui từ từ để dừng lại con số 85 với 14 quốc gia trên thế giới. Một con số đáng ngại trong lịch sử đi hành hương của quý Thầy.
20/03/2013(Xem: 3277)
Tác giả sinh năm 1937, 63 tuổi, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau đây là bút ký về California lãnh Giải Thưởng do ông Luận viết. Bài đã phổ biến trong sách VVNM 2001, nhưng “mất tích” trên Việt Báo Online. Xin mời cùng đọc lại. Hình trên, từ trái: Thượng Nghị Sĩ California, Ông Joe Dunn và các viên chức dân cử khai mạc cuộc họp mặt. Phía trái là nữ nghệ sĩ Kiều Chinh. Phía mặt là cô Leyna Nguyen của truyền hình KCAL9.
19/03/2013(Xem: 10379)
Tập truyện “ Làng Cũ - Người Xưa” của Tiền Vĩnh Lạc (Australia) .Sách dầy 216 trang, bìa cứng 4 màu. Bìa trước cảnh nhóm chợ chồm hỗm ở làng quê tỉnh Trà Vinh. Bìa sau hình xe thổ mộ, ngưa kéo, tác giả gọi là “xe kiếng”? Nội dung gồm nhiều truyện ngắn, hồi ký, tài liệu quý giá...cùng nhiều kinh nghiệm sống viết ra ý chừng muốn khuyên răn con cháu, sách đọc thú vị và cần thiết để làm tài liệu nghiên cứu. Sách không bán, in để tặng . Ai cần xin gọi 618-8932- 3912
10/03/2013(Xem: 3119)
Nước Xá Vệ có cô gái nghèo tên Nan Đà, thân thế cô độc thân, sống bằng nghề ăn xin. Bấy giờ, cô thấy các vị vua chúa, quan đại thần, trưởng giả cúng dường Phật và chư Tăng, cô tự nghĩ: “Ta mắc tội báo gì mà sinh vào nhà bần tiện như thế này nên không thể cúng dường đấng phước điền?”. Cô tự hối trách lấy mình.
04/03/2013(Xem: 5607)
Theo lời Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể rằng, những ngày Hòa Thượng còn ở quê nhà, nơi Tổ đình Thiên Ấn – miền Trung, có một chú sa di tên Diệu Mãn. Thường nhật Chú chỉ làm công việc quét chùa. Chú người hiền lành, ít nói, tánh tình ngồ ngộ. Đặc biệt trong chúng, ai nhờ việc gì đều hoan hỷ làm ngay. Cũng chính vì vậy, chú thường bị quí sư huynh đệ la rầy, sao đang làm việc này lại bỏ đi làm việc kia… Tuy vậy, nhưng lúc nào chú cũng hoan hỷ, không ai thấy chú câu chấp việc gì bao giờ.
20/02/2013(Xem: 16617)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập) do HT Thích Như Điển dịch Việt: Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt. Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: „Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào.
01/02/2013(Xem: 8550)
Tuổi Hồng Con Gái là tác phẩm đầu đời của tôi được viết vào năm 1980 cùng thời gian với tấm ảnh ngoài bìa sách. Tuy lúc đó sống ngay trên quê hương Việt Nam với dân số đông đảo mấy chục triệu người nhưng xung quanh tôi, vì hoàn cảnh hết sức đặc biệt, tôi không có lấy một người bạn, một người thân để tâm tình những lúc vui, buồn trong cuộc sống.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]