Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Bác Tửu

03/05/201311:19(Xem: 9454)
11. Bác Tửu
Bằng Tất Cả Tấm Lòng


11. Bác Tửu

Thích Chân Tính
Nguồn: Thích Chân Tính

Sau một ngày làm việc mệt nhọc, bác Tửu thả mình nằm trên chiếc võng nghỉ ngơi. Gió chiều nay khá mạnh, tiếng xào xạc của lá cây Bồ đề vọng đến nhà khách nghe rất rõ. Mặt trời đang hắt những tia nắng cuối cùng trên nền trời trong xanh. Bác Tửu khẽ nhắm mắt lại và hít một hơi dài không khí trong lành.

- Bác Tửu ơi!

Nghe tiếng gọi bác nhỏm người ngồi dậy. Tôi cầm cái ki đan bằng trúc đến bên cạnh:

- Nhờ bác phát tâm sáng mai chữa giúp cái ki này để đựng đất.

Biết ngày mai đào chân móng khởi công xây tháp cố Hòa thượng Viện chủ cần phải có ki tốt để làm, bác vui vẻ nhận ngay:

- Vâng, thầy đưa đây tôi.

Bác đứng dậy định vào phòng. Tôi ngăn:

- Bác cứ nằm nghỉ đi, sáng mai làm sớm cũng kịp chán.

- Để tôi làm một tí là xong mà.

Tôi cố cản nhưng bác không nghe. Vào phòng lấy con dao rựa, bác ra khóm trúc chặt một cây đem về làm. Bác cắt một đoạn trúc dài độ 70 phân, chẻ nhỏ ra mỗi mảnh khoảng một phân rưỡi ngang rồi đan dặm vào những chỗ ki đã bị hư gãy. Nhìn những đường gân nổi trên bàn tay của bác tôi thương quá. Đôi bàn tay chai rắn đã chứng tỏ quá trình lao động cần cù của bác. Có lẽ nhờ tính siêng năng, giản dị và thật thà, bác đã chiếm được cảm tình của hầu hết mọi người trong chùa.

Trước đây bác ở Đồng Xoài, Thuận Lợi, sinh sống bằng nghề cạo mủ cao su. Cuộc đời bác như mặt nước thu êm ả trôi, không ước vọng cao sang, chẳng mơ màng thê tử. Thấy bác vất vả và thui thủi một mình, những người hàng xóm thương hại đã giới thiệu cho bác một “người đàn bà” để hủ hỉ sớm hôm, bác mắc cỡ từ chối. Thế rồi, “người đàn bà” ấy đã “lỡ” thương bác nên quyết tâm tiến tới. Cuối cùng bác cũng vui mừng cạn chén giao bôi. Từ đó, mái nhà hiu quạnh trước đây nay đã trở nên ấm cúng, sớm hôm có người chăm lo chu tất. Bác cảm thấy vui vui và có được đôi chút hạnh phúc do người vợ “khéo” đem đến. Ngày nọ, sau khi làm việc ở đồn điền cao su về, bác thấy nhà cửa vắng vẻ, kiếm trước tìm sau không thấy người vợ yêu quý đâu. Khi mở tủ, bác mới vỡ lẽ toàn bộ số tiền vừa hốt hụi hôm qua đã theo người vợ biến mất! Bác có buồn đôi chút, nhưng thương tiếc thì không.

Năm 1965, chiến tranh tàn phá khu vực bác ở, Hòa thượng Viện chủ chùa Hoằng Pháp đã đón nhận số đồng bào này về tị nạn tại chùa, trong đó có bác. Do nương náu cửa chùa lâu ngày và quen dần nếp sống thiền môn nên bác xin ở lại chùa công quả. Đã hơn hai mươi năm trôi qua, bác không cạo tóc và chẳng biết xuất gia hay tu là gì. Bác chỉ biết có một điều: Hàng ngày ăn cơm chùa thì phải quét lá đa, không từ nan bất cứ việc gì. Có lần bác bệnh cảm mà vẫn ra vườn nhổ cỏ, chăm sóc rau quả, tôi khuyên vào nghỉ, nhưng bác không nghe. Bác nói nằm nghỉ buồn bực tay chân lắm, làm việc cho khuây khỏa. Dường như bác chẳng chịu ở không bao giờ, chỉ trừ khi bệnh nặng làm không được mới chịu. Có lẽ nhờ tính siêng năng này mà bác thêm sức khỏe và ít bệnh tật. Tôi được biết có những người thiếu nghị lực, mặc dù đầy đủ sức khỏe mà vẫn luôn bệnh hoạn. Do lẩn tránh trách nhiệm nên họ cố tạo ra bệnh, ít lại xít ra nhiều. Dần dần con người họ trở nên bạc nhược và mất nghị lực sống.

Một điều đáng quý ở bác là ngoài ba bữa cơm ra, bác không say mê một thứ gì. Có lần tâm sự, tôi được biết trước đó bác cũng nghiện thuốc lào, từ khi vào chùa đã dứt bỏ hẳn. Tuy việc bỏ thuốc lào của bác không hay ho gì, nhưng so với những người “đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên” thì bác quả là người có đầy đủ nghị lực để từ bỏ một thói quen khó bỏ.

Đồng thời với bác, đã có biết bao người đến chùa, họ hăm hở phát ra những đại thệ nguyện lớn lao muốn độ tận chúng sinh. Thế rồi chúng sinh độ mãi mà chưa tận, cuối cùng họ lại được độ tận bởi chúng sinh! Riêng bác, tôi chưa khi nào nghe bác nói đến chuyện tu hành hay mơ tưởng thành Phật tác Tổ gì cả, chỉ biết cặm cụi làm việc và ít nói. Thế mà bác vẫn cứ vững như kiềng ba chân, mặc cho bao lượt người đến chùa rồi ra đi không hẹn ngày trở lại. Tôi có cảm tưởng bác đang bước từng bước vững chắc trên con đường giải thoát.

Bác đan xong cái ki thì bầu trời đã đầy sao. Mọi ngày, trước khi ngủ bác đều khóa cổng chùa. Hơn tháng nay vì tuần thất của Hòa thượng Viện chủ, các Phật tử ra vào thường xuyên, nên đôi lúc bác cũng không chú trọng cho lắm việc đóng cổng. Vả lại, có lần bác nghĩ chùa rộng mênh mông hơn bốn mẫu, những khóm trúc trồng chung quanh chùa thay cho hàng rào cũng không kín đáo gì. Giả sử kẻ gian có ý đồ xâm nhập thì dù có khóa cổng cũng không ích chi.

Đêm nay, mới 21 giờ mà khung cảnh nội tự đã yên lặng. Đại chúng chỉ tịnh nơi tư phòng. Bỗng một loạt tiếng chó sủa hướng về phía cổng chùa. Bác Tửu giật mình thức giấc, nhỏm người ngồi dậy, vội vã bước xuống giường, mở cửa đi ra ngoài nhà khách. Với cái tuổi ngoài 60, hơn nữa mắt nhắm mắt mở, bác chỉ thấy hai bóng người mờ mờ phía trước. Bác hỏi vội:

- Ai đó?

Tiếng anh thanh niên đáp:

- Dạ, tụi cháu vào xin cây hương nhu.

- Mấy cậu ở đâu?

- Dạ, tụi cháu ở ngoài phố này.

Vì thỉnh thoảng chùa có xảy ra mất trộm nên bác cũng đề phòng kẻ gian lập mưu ăn cắp.

- Đêm khuya tăm tối không ai đi lấy được đâu. Sáng mai các cậu đến tôi cho.

Một trong hai anh nói:

- Xin bác làm ơn làm phước giúp đỡ, má cháu đang bị cảm nặng, cần một ít hương nhu nấu nước xông ngay bây giờ.

- Dạ, xin bác mở lòng từ bi tế độ “cứu bệnh như cứu hỏa”. - Anh kia xen vào.

Bác Tửu nhìn kỹ thấy hai người ăn mặc đứng đắn, lời nói có vẻ ân cần tha thiết, mặc dù không đọc kinh sách, nhưng do ở chùa lâu ngày, hạt giống từ bi ít nhiều cũng gieo vào lòng bác, nên khi nghe nói bệnh nhân đau nặng cần thuốc, lại cảm động trước tấm lòng hiếu thảo của người con thương mẹ, bác không còn do dự nghi ngờ gì nữa, liền bật đèn pin hướng dẫn hai anh ra vườn. Sau khi bẻ hương nhu xong họ lại xin thêm một ít xả, thế là bác cũng vui vẻ soi đường đưa họ ra mé vườn cách nhà khách khoảng bốn chục mét để nhổ. Nhổ xả xong bác cùng hai người quay vào nhà khách. Bác cảm thấy sung sướng trong lòng vì mình vừa làm xong một việc thiện, gương mặt tươi vui, vừa đi bác vừa hỏi thăm họ rất thân mật. Một anh đi song song với bác luôn cười nói đối đáp, một anh thì âm thầm lặng lẽ bước từng bước phía sau. Không gian tĩnh mịch, nội tự lúc này chỉ còn âm thanh của hai người và một vài tiếng dế kêu rả rích. Bỗng nhiên một tiếng “á” vọng ra từ cửa miệng bác khi bị hai bàn tay của người thanh niên phía sau bóp cổ mình. Do bất ngờ và mất thăng bằng bác lảo đảo chúi người về phía trước. Bác hốt hoảng la lên. Biết không ngăn kịp tiếng kêu cứu của bác, anh đi bên cạnh rút dao đâm bác một nhát rồi họ cùng nhau bỏ chạy. Tiếng kêu la của bác càng vang lên khẩn thiết trong đêm khuya thanh vắng. Mọi người thức giấc kéo nhau ra lùng soát kẻ cướp, nhưng kẻ cướp đâu không thấy, chỉ thấy xa xa một hàng trúc xanh âm u vắng vẻ.

Sau khi nghe bác thuật lại đầu đuôi sự việc và nhìn vết đâm loang máu nơi cổ tay bác, người thì chép miệng thương hại, người thì trách bác thương người không đúng lúc, người thì đổ lỗi tại không khóa cổng... Riêng bác thì:

- Chưa sao! Nó không đâm trúng tim là tốt rồi.

Mọi người chỉ buồn cười mà thương hại cho tính thật thà của bác. Một lát sau sự ồn ào cũng tắt dần, trả lại cho nội tự cảnh thanh tịnh như cũ.

Biết đây là bài học về lòng từ bi thiếu trí tuệ nên tôi nhắc nhở bác:

- Lần sau bác có từ bi cũng phải nên suy nghĩ cho kỹ một tí. Đừng quá tin người như thế nghe bác.

- Vâng, vâng, lần sau tụi nó đừng hòng đem từ bi mà dụ dỗ tôi nữa.

Tôi phụ băng bó vết thương nơi cổ tay cho bác. Cầm bàn tay rắn chắc và chai cứng ấy, tôi lại nhớ đến cuộc đời cần cù siêng năng của bác mà thương kính vô cùng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7501)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8412)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7178)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6080)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6996)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5287)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3967)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8492)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22926)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4615)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]