Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 8

02/05/201312:02(Xem: 10856)
Phần 8
Ánh Đạo Vàng


Phần 8

Võ Đình Cường
Nguồn: Võ Đình Cường


Đêm phủ một lớp tối đen dày. Rừng tịch mịch thỉnh thoảng gầm lên những tiếng hãi hùng rùng rợn của loài ác thú đang cấu xé, cắn rứt nhau trong bóng tối.

Từng đêm này sang đêm khác, đức Thích-ca ngồi tĩnh toạ trong bóng tối, nhưng hào quang trên trán Ngài sáng rực dưới vòm lá cây bồ-đề. Ma vương, chúa tể của những cõi tối tăm, nhìn thấy, đoán biết Ngài sắp tung bừng ánh sáng của Đạo vàng và cứu thoát cõi đời ra ngoài biển khổ, liền hội gấp các bè đảng để tìm cách đối phó. Thôi thì cả một đoàn quỷ sứ, một lũ ác thần–kẻ thù của Chân Lý và Ánh Sáng, bọn gieo rắc bóng tối và dục vọng xuống trần gian–hăm hở kéo đến vây quanh cây bồ-đề. Chúng dùng đủ cách, khi van xin cầu khẩn, khi gầm thét doạ dẫm để làm xiêu lòng Bồ-tát.

Đầu tiên, một đoàn quỷ Tham kéo đến, mắt dớn dác nhìn quanh, hai tay cong cong như chực vồ lấy một vật gì. Chúng hội lại đủ các hạng: Quỷ Tham Sống bảo Ngài: “Có gì quý giá hơn sự Sống, sao người bỏ đi?” Quỷ Tham Danh bảo Ngài: “Hỡi người con vua Tịnh-phạn, sao dại khờ lắm thế? Người là kẻ tài hoa lỗi lạc, người là dòng thế phiệt trâm anh, người sắp được lên ngôi báu, danh giá không ai bằng, sao lại đi làm một kẻ ăn xin vất vưởng từ xứ này qua xứ khác?” Quỷ Tham Khoái Lạc bảo Ngài: “Người đang ở trong cung vui mùa lạnh có nhà ấm, mùa nực có nhà mát, ăn toàn thức ngon, uống toàn rượu quý, tai chỉ nghe cung đàn tiếng địch, mắt chỉ ngắm những điệu múa kỳ lạ của bọn vũ nữ. Sống khoái lạc như thế, cớ sao người lại dại khờ ruồng bỏ để đến đây nằm sương gối tuyết?”

Đức Thích-ca nhìn chúng trả lời:

– Bọn ngu muội lấy giả làm thật, bám víu vào những ảo tưởng mong manh, hãy đi xa chỗ này. Chúng mày không cám dỗ được ta.

Bọn quỷ Tham xấu hổ, lẩn vào trong bóng tối.

Một đoàn quỷ Gíận kéo đến khi đoàn quỷ Tham chưa lẩn hết trong đêm. Chúng gầm thét vang trời chuyển đất. Mặt chúng đỏ gay hay xám bạc, môi chúng bặm lại, hai hàm răng nghiến trèo trẹo vào nhau. Những con rắn đầu nhỏ quấn đuôi quanh cổ chúng và thè nọc ra đàng trước như chực trườn tới để cắm độc vào kẻ thù. Chúng gầm:

– Chúng ta phá hết, giết hết, không ai có thề cản ngăn. Chúng ta nhóm lửa ở giữa lòng người và thiêu đốt cả thiên hạ. Chúng ta gieo nọc độc khắp nơi và thế giới sẽ vì chúng ta mà tiêu diệt. Hỡi Thái tử Tất-đạt-đa, chúng ta sẽ bắt ngươi làm đệ tử.

Nhưng đức Thích-ca chỉ mỉm cười đưa mắt hiền từ nhìn chúng. Cái nhìn của Ngài có một mãnh lực lạ lùng! Bao nhiêu vẻ hung hăng độc ác tan theo chúng như một làn mây!

Bấy giờ trời đất bỗng tối sầm lại. Một sự hồi hộp, sợ sệt, e ấp trong lá. Từng đàn gì bay nặng nề trong bóng tối như từng đàn dơi, từng đàn gì luồn dưới cỏ như từng đàn rắn. Những tiếng chân hấp tấp chạy trong tối trước những hình đen như xạ: bọn quỷ Ngu Muội–mẹ đẻ của Sợ Hãi và Bất Công–đến vây quanh cây bồ-đề. Sau một chuỗi cười mai mỉa, chúng hỏi Ngài:

– Này Thái tử! Ánh sáng của người được bao nhiêu mà dám đem ra soi đường cho nhân loại? Đừng đeo đuổi một công việc vô ích. Người càng tìm ra ánh sáng, chúng ta lại càng trút thêm bóng tối. Mỗi ngày mỗi ít, chúng ta đã gieo rắc qua mấy muôn triệu năm rồi những hạt si mê mà bấy giờ tất cả thế gian đều ngập lụt. Chúng ta thách người đấy. Người hãy lấy ánh sáng gì để quét sạch bóng Si mê đi!

Từ đỉnh trán đứe Thích-ca phóng một tia hào quang sáng như cả ngàn ngôi sao chụm lại, chiếu khắp bốn phía như một bó chổi sáng quét sạch tất cả bóng đêm.

Bọn quỷ Ngạo Mạn kéo nhau đến. Đầu chúng ngẩng cao, ngực ưỡn, đôi mắt xấc láo nhìn Ngài. Chúng nói giọng khinh khỉnh, sau khi đưa một tay lên khoát ở trước mặt như để xua đuổi một mùi thối tha:

– Trần gian nhơ bẩn, hạ tiện này có đáng gì mà phải hao công tìm phương cứu chữa? Cái bọn ngu muội xấu xa là nhân loại này chỉ đáng để cho bị tiêu diệt. Người hãy theo chúng ta đạp đổ thế giới này mà lên mấy từng trời xanh, cùng nhau sống riêng biệt, hưởng những lạc thú thanh cao mà chỉ chúng ta là có quyền hưởng.

Đức Thích-ca mỉm cười:

– Phải! Các người hãy đạp đổ thế giới này đi rồi con đường của các người sẽ đưa các người vào địa ngục.

Bọn quỷ Ngạo Mạn vênh mặt, rủ nhau bỏ đi.

Nhưng một bọn khác lại kéo đến. Đây là những con quỷ Nghi Ngờ, thiếu tin tưởng, đầu đưa lắc la lắc lưỡng, trên những chiếc cổ cao, hai tay áo buông xuôi như bị đẫm ướt, môi mím lại làm nổi một nếp nhăn trên mép nửa như mếu, nửa như cười.

Chúng đến thét vào tai Ngài: “Giả dối, mọi sự đều giả dối! Chân lý! Chân lý là cái quái gì? Người chỉ đi theo một ảo giác hy vọng hão huyền. Không có cách gì cứu chữa được nhân loại. Đạo của người sẽ vô công hiệu giữa thế giới đam mê. Ha ha! Giải thoát cho nhân loại thoát khỏi luân hồi! Ôi, có ai điên rồ hơn thế nữa!”

Đức Thích-ca nhìn chúng, miệng nghiêm lại, vẻ cương quyết lạ lùng. Mắt Ngài chứa đầy một nguồn tin tưởng mạnh mẽ làm cho bọn quỷ Nghi Ngờ cảm thấy đây không phải là nơi chúng có thể dùng những lời bi quan để đánh đổ. Chúng rủ nhau thất thểu ra đi, đầu lắc lư thêm, nét nhăn bên má lại càng chua chát hơn trước, hai tay buông thỏng rã rời như không còn sức để bám víu vào một cái gì được nữa...

Nhưng bọn quỷ sứ ấy chưa nguy hiểm lắm. Nguy hiểm nhất là Ca-ma (KAMMA), chúa tể của dục tình và những khoái lạc xác thịt. Nó nắm một cung đồng kết hoa, mang một bó tên tẩm thuốe độc có ba mũi nhọn mà mỗi khi chúng đã cắm vào tim thì không có sức nào rút ra được. Ca-ma đi đầu; sau nó là một đoàn thiếu nữa đẹp như hoa, vừa đi vừa hát những điệu hát du dương ca tụng ái tình nhịp nhàng hoà theo điệu nhạc. Chúng vừa hát vừa đưa những cặp mắt lẳng lơ, những nụ cười khêu gợi, giấu một nửa sau những cánh quạt hoa. Chúng uốn éo những tấm thân dẻo như rắn của chúng khi đi qua trước mặt đức Thích-ca. Nhưng Ngài vẫn thản nhiên, lòng không mảy may xao động.

Ca-ma liền ra hiệu cho bọn vũ nữ dang ra và một nàng đẹp hơn cả, giả dạng nàng Da-du-đà-la đi vào. Toàn thân nàng hiện lên một vẻ đẹp não nùng mà những ngày dài đau thương đã tô thêm đậm nét. Nàng đến bên Ngài khẽ than, đôi mắt nhung long lanh sau màn lệ nóng:

– Ôi Thái tử! Chàng có biết chăng nỗi đau khổ của em khi chàng bỏ cung điện ra đi? Trên bờ sông Rohini, em đã ngồi khóc qua những ngày dài dằng dặc. Em mong chàng về, nhưng đôi mắt đã mờ lệ, mà trên đường về em nào thấy bóng chàng đâu! Về với em đi, Thái tử! Chàng sẽ tựa đầu vào cánh tay em và em sẽ quạt cho chàng như những năm xưa, khi chàng còn là lẽ sống của đời em!

Đức Thích-ca trả lời:

– Bóng hình giả dối, như bao nhiêu bóng hình giả dối của thế gian, mày không thể phỉnh gạt ta được. Hãy tan cho mau theo bóng tối!

Ca-ma tức giận thét lên một tiếng. Bao nhiêu nàng mỹ nữ đều tan biến mất. Nhưng trời bỗng chuyển động. Tiếng gầm thét, ban đầu còn xa, mỗi lúc mỗi gần và lớn dần. Trời sầm sập đổ mưa. Bão tố nổi dậy, từng làn chớp quăn queo đan nhau trên vòm cây bồ-đề. Bao nhiêu dục vọng đê hèn, bao nhiêu si mê cuồng dại, bao nhiêu tội ác hiện hình, làm thành một đạo binh hỗn độn, thổi gió, phun mưa, nổi sấm, bắn những mũi tên độc vào Ngài, lao những chiếc sào nhọn bọc sắt. Nhưng bao nhiêu sự tấn công của chúng đều vô hiệu. Đức Thích-ca vẫn điềm nhiên ngồi vững chắc dưới cây bồ-đề, trên trán một vùng hào quang chiếu rực rỡ. Và cây bồ-đề vẫn đứng yên như không có gì xảy ra cả.

Đến canh hai trời đất trở lại yên tĩnh và trong suốt như gương. Trong bầu trời xanh, long lanh những vì sao bạc.

Đức Thích-ca chứng được quả “Túc Mệnh Minh”. Nhờ trí tuệ siêu phàm, Ngài thấu suốt được tất cả khoảng đời quá khứ xa, rất xa của Ngài trong ba giới. Như người bộ hành ngồi nghỉ trên núi cao, nhìn xuống quãng đường quanh co mình vừa đi qua, nào đồng, nào ruộng, nào khe, nào rừng; bên cạnh hố kia mình sắp sẩy chân, trên bãi cát nọ mình sắp kiệt lực, và xa xa, một đám bùn lầy phỉnh phờ giấu mình dưới những khóm lau lách, và nếu không sáng mắt, đã bị sa chân vào đấy. Ngài thấy rõ ràng tất cả những kiếp xưa của Ngài, những nỗi khó khăn, những điều trở ngại đã vượt qua để lên đến địa vị cao xa cùng tột này... Ngài nhận thấy sự tăng tiến tiếp tục từ đời này sang đời khác, không một lúc nào đứt quãng, cũng không một lúc nào đứng yên. Sau mỗi kiếp, cuộc đời như đã tan vỡ. Nhưng không! Sự sống chỉ náu mình để dồn thêm sức lực rồi mạnh mẽ tiến lên, như hạt lúa náu mình trong đất để chuyển hình ra cây mạ xanh tốt. Và trong cây mạ mới, có ẩn mầm giống của những hạt lúa xưa, trong kiếp này có ẩn tất cả bao nhiêu nhân của những nghiệp trước. Do đó, Ngài nhận thấy không một sự cố gắng nào, một sự phấn đấu nào để đi đến cõi thiện là vô ích. Chính chúng nó đã làm thang cho Ngài bước, xây tháp cho Ngài lên. Và bây giờ ngồi trên đỉnh tháp cao, xây dựng với bao nhiêu đời mình, Ngài đưa mắt sáng suốt nhìn xuống, thấy rõ ràng từng viên gạch và từng công trình kiến trúc mà Ngài đã ra công xây dựng để đến ngày khánh thành rực rỡ hôm nay.

Đến nửa đêm, ngài chứng được quả “Thiên Nhãn Minh” thấy rõ tất cả bản thể của vũ trụ, từ thế giới này đến bao nhiêu thế giới khác. Ngài thấu suốt tất cả các hàng tinh tú từ nhỏ cho đến lớn, từ gần cho đến xa, cái này liên lạc với cái kia, cái kia với cái khác, cái khác với cái khác nữa, như những trục bánh xe ràng buộc với nhau bởi những sợi dây vô hình và cứ như thế mà lan dần cho đến vô cùng, vô tận... Tuy xa cách chúng vẫn hiệp vầy, tuy nhiều mà một, tuy một mà nhiều. Chúng có khác nhau ở hình dáng, nhưng không khác nhau ở bản chất. Tất cả vòm trời sao sáng ấy là những hòn đảo bạc nổi giữa biển xanh ngời, không bờ không bến, trong ấy sóng triều luân chuyển mãi không thôi, và cũng không thêm, không bớt, không đầy, không vơi, vừa sanh vừa diệt, vừa diệt vừa sanh... Sau khi đã quan sát toàn cả vũ trụ. Ngài nhận thấy một cái luật chung bất di bất dịch, âm thầm mà mạnh mẽ, nó chuyển mọi vật từ bóng tối đến ánh sáng, từ cõi chết đến cõi sống, từ vô hình đến hữu hình, từ hữu hình trở lại vô hình, làm thành một vòng tròn gồm bốn giai đoạn: sinh, trụ, dị, diệt. Cái luật ấy không gì có thể vượt qua, từ một vật bé nhỏ như vi trần cho đến to lớn như trăng sao. Đó là luật nhân duyên sanh.

Đến canh tư, Ngài chứng được quả “Lậu Tận Minh” rõ biết nguồn gốc của sự đau khổ đã bám víu vào chúng sanh như bóng dính theo hình. Ngài nhận thấy, vì dục vọng làm mù quáng, như vì bụi dấy lên từ dưới chân đàn cừu làm lạc mất đường chúng đi, người đã từ bản tâm sáng suốt đi dần mãi vào cõi Vô minh. Vì Vô minh mà người có những hành vi, động tác sanh ra các nghiệp báo (hành), rồi tự phân biệt có cái ta riêng khác (thức). Phân biệt như thế, tất nhiên thấy có nội tâm và ngoại cảnh, có hình tướng sắc màu và đặt tên cho mọi sự vật (danh sắc); bấy giờ một bên là tâm, một bên là cảnh; đối với cảnh, tâm có những giác quan riêng để thu nhận được (lục nhập); hình tướng và giác quan đụng chạm, cọ xát với nhau mà thành ra cảm giác (xúc); xúc cảm đem đến sự thọ nhận các hiện tượng ở thế gian (thọ); sự thọ nhận ấy gây ra tình yêu mến đối với vật mình ưa thích (ái); đã yêu mến thì cố giữ gìn (thủ); cố bám víu vào cái mình đã ưa thích không muốn chia lìa (hữu). Vì thế mà có nghiệp báo ở thế gian. Cái nghiệp báo ở thế gian bắt phải đầu sanh lại ở cõi đời sau khi chết (sanh). Và từ đấy, bắt đầu một cuộc sống khác với những sự dau khổ kèm theo nó: bệnh, già, chết (bệnh, lão, tử). Mười hai giai đoạn ấy nối tiếp nhau, nhân này làm quả kia, quả kia làm nhân khác, và cứ như thế, cái vòng tròn quay tít không thôi. Muốn cắt đứt cái vòng tròn ấy, phải trừ Vô minh. Nhưng người ta không thể trừ Vô minh, không thể sáng suốt được khi còn nhiều tham vọng. Ôi tham vọng! Sự khát khao không bao giờ thoả mãn, khiến người uống mãi trong biển mặn đau thương và làm thêm khao khát thèm thuồng, và mãi mãi quay cuồng trong sinh tử. Người hiểu rõ cái nguy hiểm của dục vọng, quyết kiềm chế lòng mình, diệt trừ tham muốn cho đến tận gốc (giới). Lúc dục vọng đã bị gạt bỏ ra khỏi lòng, người sẽ bình thản trước mọi sự vật giả dối đang xao xuyến ở xung quanh. Lúc ấy tâm thần sẽ định tỉnh, không một sức mạnh nào có thể lay chuyển lao lung (định). Trí tuệ nhờ đó mà mỗi ngày mỗi minh mẫn, và một ngày kia, sẽ bưng lên soi cùng vũ trụ (tuệ), như vầng trăng hiện ở dưới đáy hồ khi mặt nước đã trở lại phẳng lì vì gió dục đã dừng thổi sóng khổ đau.

Từ đấy, cỗ xe đời rã bánh, người bị buộc vào cỗ xe được giải thoát, vượt ra ngoài phạm vi nhỏ hẹp, thấy mình là toàn thể, toàn thể là mình. Người không còn bị ràng buộc trong không gian, cho nên không phụ thuộc với thời gian; không riêng giữ một hình dáng cho nên luôn luôn vĩnh viễn; bởi biết tự đổi thay cho nên không bao giờ bị thay đổi. Người bắt đầu qua một trạng thái mới, không sanh không diệt, an lành thanh tịnh, sáng suốt vô ngần: đấy là Niết-bàn!

Bình minh bừng dậy. Ánh sáng làm mờ hẳn sao mai–kẻ soi đường cho người đi khuya–vừa lại ở ven trời. Bóng đêm rạn vỡ tan biến rất nhanh. Nắng vàng bắt đầu xối chảy xuống trần gian. Nắng vàng gội rửa những chóp núi cao, nắng vàng tuôn tràn ra hai bên sườn, reo chảy xuống chân núi, lan dần ra trên đồng bằng, khoả một lớp mỏng trên mặt sông, mặt biển, làm lấp lánh những ánh kim cương trên muôn ngàn làn sóng.

Ánh Sáng Vàng lan tràn khắp mọi ngả, và giục giã đời dậy khắp nơi. Nó đến mở mắt loài chim và thì thầm: “Hót đi các con! Đêm vừa hết!” Nó đến vuốt ve loài hoa và bảo: “Nở đi các con! Ánh sáng đã về!” Nó đến mân mê loài thú và nói: “Ánh sáng đã về. Thôi qua rồi bóng đêm độc ác!”

Nó điểm tô cho cảnh vật một màu sắc mới: nó nhuộm vàng những làn mây xám, làm anh ánh những hạt lệ đêm. Những vòm lá xanh xao vàng úa như da người ốm bỗng đổi ra màu lục đậm, những cánh hoa xoan đỏ như máu bỗng chuyển sang màu hoàng bá...

Nhưng ảnh hưởng đẹp đẽ và mạnh mẽ nhất của luồng Ánh Sáng kia là ở giữa lòng người. Ôi! Ánh Đạo Vàng! Ánh Đạo Vàng huyền diệu! Bọn cướp bỗng ghê sợ bàn tay tẩm máu của mình, vứt dao vào bụi; người bán hàng thôi bán giá cao; kẻ đổi bạc thôi chuồi thêm bạc giả; người đau mỉm cười trên giường bệnh; người sắp chết thấy mình tràn đầy hy vọng; kẻ lạc đường bỗng quay lại và thấy mình đi trúng đích! Bóng cờ giải hoà phấp phới bay trên các bãi chiến, và quân địch nhìn ra toàn mặt anh em, sung sướng bổ chồm tới ôm nhau khóc...

Cũng buổi mai ấy, trong cung lạnh, nàng Da-du-đà-la nghe lòng mình ấm dịu và reo chảy một nguồn vui. Trên cành liễu trước sân một con Ca- lăng-tần-già uốn lưỡi tung một tràng nhạc, ca tụng sự rạng rỡ của Đạo Vàng, chói chang ánh sáng, cao sang hơn muôn ngàn ngai vàng, điện ngọc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/12/2014(Xem: 3619)
T huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.
01/12/2014(Xem: 13038)
Nguyên gốc tác phẩm này là của Genro, một Thiền sư thuộc tông Tào động Nhật Bản, viết và xuất bản năm 1783. Mỗi câu chuyện là một công án mà tác giả đã có lời bình và kệ đi kèm. Fugai, người thừa kế Genro, thêm nhận xét của sư, câu đối câu, vào sách của thầy. Tôi sẽ dịch các câu chyện hay tắc, gồm cả lời bình của Genro và nhận xét của Fugai trong hầu hết các câu chuyện để tham khảo. Có khi gặp bài kệ cũng dịch để khuyến khích học tập.
28/11/2014(Xem: 4239)
Tôi và cả vợ tôi nữa, hình như mấy ngày hôm nay, lòng lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, hạnh phúc vô cùng! Chuyện chẳng có gì to tát lắm đâu mà sao chúng tôi vui mừng đến vậy. Tối thứ bảy vừa qua, sau khi tắt đèn, mở cửa phòng đi tìm nước uống chuẩn bị đi ngủ, tôi phát hiện ngay trước cửa phòng một túi quà nhỏ, món quà nhỏ bé của các con tôi, với một tờ giấy võn vẹn sáu chữ "Happy 40th year from your children". Chỉ với sáu chữ võn vẹn đó...đã khiến vợ chồng tôi ngẩn ngơ, quên đi hai chiếc đồng hồ tuyệt đẹp trên tay vợ tôi! Vợ tôi thì xúc động lắm, còn tôi, miệng thì luôn hỏi sao tụi nó lại nhớ đến ngày cưới của mình, nhưng lòng lại mơ màng nghĩ về những ngày này của 40 năm trước...Tôi cưới vợ!
16/11/2014(Xem: 4995)
Sau khi kết hôn hai năm, chồng tôi bàn với tôi đón mẹ lên ở chung để chăm sóc bà những năm tuổi già.Chồng tôi mất cha từ ngày anh còn nhỏ, mẹ chồng tôi là chỗ dựa duy nhất, mẹ nuôi anh khôn lớn, cho anh học hết đại học. “Khổ đau cay đắng” bốn chữ ấy vận đúng vào số phận mẹ chồng tôi! Tôi nhanh chóng gật đầu, liền đi thu dọn căn phòng có ban công hướng Nam, phòng có thể đón nắng, trồng chút hoa cỏ gì đó.Chồng tôi đứng giữa căn phòng ngập tràn nắng, không nói câu nào, chỉ đột ngột bế bổng tôi lên quay khắp phòng, khi tôi giãy giụa cào cấu đòi xuống, anh nói: “Đi đón mẹ chúng ta thôi!”.
15/11/2014(Xem: 10225)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì ...
14/11/2014(Xem: 4736)
Tại một ngôi trường tiểu học trong một thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ hôm nay là ngày đầu tiên khai giảng cho năm học mới. Cô Thompson là giáo viên phụ trách dạy lớp Năm. Cô giáo đứng trước các học sinh trong lớp học của mình và tương tự như các giáo viên khác, cô cũng nhìn khắp lượt vào các em học sinh và nói là cô sẽ thương yêu tất cả các học trò của cô như nhau, không có sự phân biệt nào cả. Cô đã nói với các đứa trẻ này điều đó, một điều mà cô tự biết là không thật lòng và cô biết là mình sẽ không thực hiện được.
08/11/2014(Xem: 6091)
Người đàn bà ngồi tựa vào tường trên lối mòn của một con hẻm. Mệt mỏi và thiếp đi cạnh quang gánh của mình. Hai đầu gánh là đủ thứ quà vặt như bánh tráng, kẹo, đến chanh, ớt… rồi có cả đồ chơi trẻ con chằng cột. Chị như muốn kéo cả thế giới chung quanh đi theo mình trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn không có ngày tháng cuối.
07/11/2014(Xem: 7528)
Tại sao lại là những bài học bình dị? Vì những câu truyện ở đây sẽ chỉ ra cho các em thấy được những bài học đạo đức rất gần gũi trong cuộc sống...
07/11/2014(Xem: 31917)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
01/11/2014(Xem: 5415)
Trước 1975, tôi là một phi công Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi qua Mỹ từ ngày mất nước, khi tuổi đời vừa mới 25. Mang tiếng pilot bay bướm nhưng tôi không có lấy một mảnh tình, bởi vì tôi không có tài tán gái. Thời đó mặc dù phụ nữ Việt nam cao giá, mấy thằng bạn không quân lanh lẹ vẫn vớt được một cô vợ Việt. Tôi khù khờ, vài năm sau đành yên bề gia thất với một thiếu nữ Mỹ tuổi đôi mươi. Hồi mới cưới, cuối tuần tôi thường dẫn Carrol hội họp bạn bè, nhưng nàng cảm thấy lạc lõng giữa đám người Việt bất đồng ngôn ngữ và từ chối những buổi họp mặt. Xuất giá tòng thê, mất liên lạc với đám bạn cũ, tôi hoàn toàn hội nhập vào đời sống Mỹ. Khi đứa con gái lên 5, chẳng may Carrol bị bịnh thận. Căn bịnh quái ác kéo dài hành hạ nàng hơn 20 năm và nàng qua đời vào thời gian đứa cháu ngoại vừa tròn 3 tuổi. Gần 2 năm qua, nỗi buồn mất người vợ Mỹ tuy đã nguôi ngoai nhưng tôi vẫn giữ thói quen sống không bè bạn, vẫn âm thầm cô đơn chiếc bóng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]