Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 2

02/05/201311:39(Xem: 10849)
Phần 2
Ánh Đạo Vàng


Phần 2

Võ Đình Cường
Nguồn: Võ Đình Cường


Sáng hôm nay, khắp các đường trong thành Ca-tỳ-la-vệ và các thành lân cận, lính nhà vua mỗi người mang một cái trống, vừa đánh vừa rao:

– Mời các công nương, mỹ nữ! Tối nay tại cung, Hoàng thượng có mở cuộc thi sắc đẹp. Mời các cô các bà hãy đến dự cho đông. Thái tử sẽ chấm cuộc thi. Mỗi người sẽ được một giải thưởng. Và giải thưởng quý nhất sẽ tặng người đẹp nhất! Mời các công nương, mỹ nữ ! Tối nay tại cung...

Tiếng rao lanh lảnh lách qua rèm, tim các cô thiếu nữ đập mạnh trong lồng ngực theo với tiếng trống thúc giục ngoài đường. Những làn da tuyết ửng hồng, những làn da nâu ửng đỏ, vì máu chạy mau thêm trong huyết quản. Mắt các cô đang xa xăm bỗng bừng sáng lên vì một ý nghĩ: “Ồ được Thái tử chấm thi!” Thế là ngày ấy họ lăng xăng trang điểm để kịp tối vào cung.

Nhà vua mở ra cuộc thi không phải không duyên cớ. Thái tử Tất-đạt-đa đã 19 tuổi rồi. Trên nét mặt ngây thơ trong sáng như gương nước mùa xuân thường lộng thoáng một áng mây buồn. Mỗi lúc gặp con, vua cha liếc thấy không khỏi không liên tưởng đến lời thầy đoán xưa.

Một hôm, Tịnh-phạn vương hội triều thần lại rồi phán bảo:

– Các khanh còn nhớ lời đạo sĩ A-tư-đa nói về Thái tử Tất-đạt-đa chứ? Lòng trẫm mong rằng lời đoán thứ nhất thực hiện, nghĩa là Thái tử sẽ làm một vị Đại vương; nhưng để ý mà xem, thì chừng như Thái tử sẽ bỏ ngôi báu mà ra đi, bỏ lại bao nhiêu công trình quý giá mà mấy mươi tiền triều đã ra công xây dựng. Trẫm hội các khanh lại đây là cốt nhờ các khanh tìm cho trẫm một cách gì để giữ Thái tử lại và đưa về con đường của tiên tổ.

Một lão thần đứng dậy tâu:

– Tâu Hoàng thượng, chỉ có lưới tình là vây được Thái tử. Ngàn vạn sợi dây đồng không buộc nổi những ý tưởng phiêu lưu mà một sợi tóc của mỹ nhân cũng đủ giữ lại dễ như bỡn.

Bá quan đều tán thành lời tâu của lão thần. Nhưng Tịnh-phạn vương lại phán:

– Đàn bà thì chẳng thiếu gì, nhưng sắc đẹp tùy theo mắt mỗi người. Trẫm biết con trẫm thích ai mà lựa?

– Như thế, tâu Hoàng thượng, thì nên bày ra cuộc thi sắc đẹp cho toàn thể tiểu thư trong nước, Thái tử sẽ chấm lấy hoa khôi. Và hoa khôi ấy sẽ là vợ Thái tử.

Thế là theo lời tâu, vua mở cuộc thi sắc đẹp. Trời chưa tối hẳn, đèn trong hoàng thành đã nối ánh sáng của mặt trời. Qua vòm cửa hoàng thành cao vòi vọi, nhẹ trôi một dòng muôn sắc. Đây là tất cả những công nương, mỹ nữ của một nước hiệp lại để làm vui lòng một người. Đây là nơi tụ hội của nhiều lối trang sức khác nhau nhắm một mục đích chung là làm đẹp lòng người vương giả. Trên những làn tóc óng ả đã chải chuốt công phu, họ phủ lên một mảnh lưới dịu và mỏng như tơ trời; và trên những áng da ngời, những khổ lụa mịn như phấn quấn quanh vài vòng, làm nổi bật những tấm thân cân đối như những tượng thần Hy Lạp, và chạy xuống tận đôi gót chân để mỗi nhịp đi là gợn lên những làn sóng cong và mềm như những lưỡi nước liếm bờ...

Họ lần lượt đi ngang trước mặt Thái tử, hai mắt to và đen nhìn xuống mũi giày; những ngón tay bóng loáng–vì mới nhuộm dầu–và suôn sắn như những đọt hải đường kéo lên một chéo áo để khỏi vướng bước chân đi. Nhưng sao những cổ chân tròn trĩnh có đeo vòng kia lại cứ ngập ngừng như sợ đạp phải một cái gì tôn nghiêm thế? Khi họ đến trước mặt Thái tử để nhận một giải thưởng trao từ tay Ngài, họ hạ đầu xuống thấp một chút nữa, để lộ nốt ruồi (Tilka) bóng loáng giữa hai hàng mi cong. Sau khi đã nhận lãnh một món đồ, họ rảo bước mau ra: một oai linh gì làm cho họ ngợp ngợp, khi đi ngang trước Thái tử. Hễ nàng nào được hoan hô đẹp hơn những kẻ trước, nàng ấy bỡ ngỡ đứng lại nhìn quanh, không biết đấy là những tiếng khen tặng mình hay một kẻ sau vừa đến; dưới sự cao cả, điềm đạm và oai nghi của Thái tử, các nàng mất hết tự hào, thấy mình nhỏ nhoi và thấp hèn quá. Họ cảm nghe như đi lạc vào một thế giới không phải để đón tiếp mình. Và cứ như thế, một nàng qua, tiếp theo một nàng đến, một vẻ đẹp theo sau một vẻ đẹp. Và cứ như thế họ đi qua... với nhan sắc của họ, may ra còn thoáng chói vọng lại vài ánh kim khí của đôi hoa tai tròn, trước khi lẩn vào bóng tối.

Không nàng nào có thể làm gợn dậy một lượn sóng tình trong lòng Người rất tinh khiết đang ước vọng tuyệt đích ấy. Không một sợi tơ luyến ái có thể vướng víu Ngài với những con bướm vừa mới lướt qua. Nhưng khi giải thưởng cuối cùng đã trao xong thì nàng Da-du-đà-la tiến đến. Thái tử giật mình: chưa bao giờ Ngài thấy một người đẹp đến thế. Nàng đi đến, vây bọc giữa một khung huyền ảo và linh động, thân hình nàng đều đặn và thanh cao lạ lùng: hình như bao nhiêu vẻ đẹp của đất trời đều hiệp vào đây để tạo nên một tuyệt tác giai nhân. Làn da hồng mịn thế kia có thể ví được với màu hồng mịn của da trời một buổi bình minh. Hai mắt xanh ướt và thăm thẳm sâu kia là hai hồ nước ngọc. Và tóc nàng dưới làn lưới mỏng, gợn lên từng lượn sóng nhung đen. Nàng khoan thai bước từng bước vương giả như đi vào chỗ quen thân. Nàng đến trước mặt Thái tử, hai tay chắp tréo trước ngực, đầu cúi xuống trong một dáng điệu thanh cao để chào Ngài. Rồi đài các nàng ngước đầu lên, đứng thẳng lại–cổ cao ba ngấn, lộ màu da hồng trên tấm áo trắng tinh. Hoa môi bừng nở nhụy răng ngà, ở đấy cất lên một giọng trong thanh như tiếng bát sứ cổ:

– Thái tử còn một vật gì để dành cho em?

– Hỡi người đẹp nhất trong những người đẹp, bao nhiêu bảo vật đã hết rồi. Nhưng nàng hãy nhận vật này thế lại.
Nói xong, Thái tử mở chuỗi ngọc ở cổ Ngài, nắm vào hai đầu mối dây. Chuỗi ngọc xanh ngời, long lanh muôn ánh nến, như một chuỗi hạt nước biếc rung rinh, sắp nhỏ dưới tay ngà. Ngài đeo chuỗi ngọc vào cổ nàng tiên ấy.

Nàng sung sướng nhìn Thái tử, cảm ơn. Thái tử nhìn lại sung sướng được ban ơn.

Ngày hôm sau, trong buổi chầu, các quan tường thuật lại với vua cuộc thi sắc đẹp và những dáng điệu của Thái tử khi nàng Da-du-đà-la, con gái của tiểu vương Thiện-giác đến. Nhà vua cười, phán bảo:

– Thế là ta đã bắt được mồi. Bây giờ phải kiếm cách gì để nhử cho con phượng hoàng ấy ra khỏi mấy từng mây xanh.

Thế là ngài truyền cho các quan đến cung vua Thiện-giác hỏi vợ cho Thái tử. Nhưng các quan buồn bã trỡ về đem theo một lời gần như thách đố của vua Thiện-giác: “Theo tục lệ nhà tôi, mỗi khi ai muốn đến hỏi con gái, phải thi võ nghệ. Trong những người đến dự thi, ai có tài hơn cả sẽ được vợ. Tục ấy không thể miễn cho một ai, dù đấy là Hoàng tử Tất-đạt-đa.”

Vua Tịnh-phạn nghe xong, lòng buồn rười rượi Ngài biết con ngài về văn chương, triết học thì không một ai sánh kịp, nhưng còn võ nghệ thì làm sao thắng nổi những tay vô địch về tài bắn eung như Đề-bà-đạt-đa, về tài cưỡi ngựa như A-nậu-đà-la và về tài múa kiếm như Nan-đà. Nhưng Thái tử vẫn thản nhiên quỳ xuống tâu vua:

– Xin phụ hoàng đừng lo ngại. Những môn võ nghệ cung tên, con đều có học cả. Phụ vương cứ truyền rao cho mọi người ai muốn thi tài võ nghệ với con hãy đến vũ trường dự thí.

Bảy ngày sau, trên vũ trường, có cuộc thi tàí rất sôi nổi. Ở đấy, từ sáng sớm đã tề tựu đủ cả các hạng người trong thành, từ những bậc vương tước cho đến cùng dân. Công chúa Da-du cũng có dự. Nàng đi đến trong đám rước cô dâu. Âm nhạc nâng từng bước chân ngựa; những rèm kiệu hoa hoè phơi phới tung bay; và đàn bò kéo xe, bệ vệ đi từng bước một vì sợ làm rơi mất những vòng hoa rực rỡ móc trên những cặp sừng vàng.

Các tay dự thi đều là dòng dõi đế vương, thân thích với Thái tử: Đề-bà-đạt-đa, A-nậu-dà-la, Nan-đà. Thái tử Tất-đạt-đa đến trên mình con ngựa Kiền-trắc. Kiền-trắc đưa ra những tiếng hí dài, vì nó chưa bao giờ quen với một đám đông như thế, và Thái tử nhìn đám đông ngạc nhiên thấy rằng tuy khác địa vị, khác cách ăn mặc, họ vẫn giống nhau trong những nét vui mừng.

Thái tử nghĩ đến đấy, bỗng có tiếng hô bắt đầu cuộc thi bắn. Nan-đà nắm một chiếe cung và sai người đem một eái trống đồng để cách xa 400 thước. A-nậu-đà-la cũng làm thế. Trống của Đề-bà-đạt-đa để xa hơn, nhưng Tất-đạt-đa chấp hết: Ngài bảo đem để trống của mình rất xa, xa cho đến lúc nào mặt nó chỉ còn thấy nhỏ lại bằng con nghêu. Mỗi người lần lượt bắn: Ba cái trống trước bị xuyên ba mũi tên, tiếng hoan hô nổi dậy một góc trời. Đến lượt Tất-đạt-đa nhắm bắn. Công chúa Da-du hồi hộp, kéo tấm lưới xuống quá mắt: nàng e sợ mũi tên không trúng đích. Hoàng tử rút mạnh sợi dây, thanh cung uốn cong như một nhành trúc yếu, hai đầu cung chúm lại và gãy ngang trong tay Thái tử. Ngài vứt cung xuống và bảo: “Thứ cung này chỉ để cho con nít chơi. Ở đây ai có chiếc cung nào tốt hơn thế nữa?” Một người trong đám mách rằng ở đền Simbahanou có một cái cung bằng đồng đen nặng lắm, chưa ai có thể trương lên nổi. Ngài sai người đến mượn. Một chốc, hai tên lính hì hục mang cung về. Ngài nắm lên, rồi trao cho mọi người dự thi thử trước. Nhưng họ chỉ trương ra nhiều nhất là được một gang tay rồi phải thả xuống. Thái tử một tay đỡ lấy thanh cung, đưa thẳng ra đằng trước và tay kia kéo mạnh dây đồng. Ngài thả dây: một tiếng ngân dài làm chuyển động cả không gian như một tiếng chuông đồng. Những kẻ tàn tật không đi xem được cuộc thi, ở nhà nhìn nhau hỏi: “Tiếng gì lạ thế?” Và có người biết chuyện trả lời: “Đấy là tiếng dây cung mà Thái tử Tất-đạt-đa đang thử”. Sau khi thử cung, Thái tử nắm một chiếc tên lắp vào dây, nhắm đích. Một tiếng ngân, một tia sáng như sao băng xuyên qua hai mặt trống đồng!

Đến cuộc thi kiếm, Đề-bà-đạt-đa trổ tài trước. Chàng cầm một thanh kiếm, tìm một gốc cây to bằng một ôm người lớn, phát ngang một lát, thân cây đứt thành hai đoạn. A-nậu-đà-la lựa một cây to lớn hơn và Nan-đà một cây lớn hơn nữa. Nhưng hai cây rất lớn mọc song nhau. Tất-đạt-đa nhẹ đưa một lát kiếm, nhanh như phóng một làn chớp, và lạ thay, hai cây vẫn đứng sững? Nan-đà mừng rỡ reo lên : “A ha! Không đứt!” Công chúa Da-du chỉ kịp tựa vào vai con thị tỳ cho khỏi gục ngã. Nhưng một cơn gió thoảng qua, hai cây cùng ngã lăn ào xuống một lượt. Thì ra lát kiếm của Thái tử quá bén và quá phẳng, nên hai thân cây tuy đã đứt ngang, vẫn còn giữ được thăng bằng trên đôi gốc phẳng.

Cuộc đua ngựa tiếp theo. Ngựa phải chạy ba vòng quanh vũ trường. Khi Nan-đà, Đề-bà-đạt-đa, A-nậu-đà-la về tới mức vòng đầu thì ngựa của Tất- đạt-da còn một khoảng nữa mới hết vòng... thứ ba. Con ngựa Kiền-trắc chạy nhanh quá, người ta không nhìn rõ nó chạy hay bay, chỉ biết mỗi giọt nước miếng của nó từ mép rơi xuống đất là nó chạy được một trăm sải. Nan-đà vội kêu lên : “Không, với con ngựa Kiền-trắc thì không ai địch nổi. Phải đem một con ngựa hết sức hung hăng ra đây thử xem ai cưỡi được”.

Quân giữ ngựa đem ra một con ngựa đen như mực, hai mắt đỏ ngầu, mũi phồng bọt mép trắng cả hàm. Nó cố trườn tới như chực bứt ba sợi dây buộc ở cổ mà chạy. Nan-đà rồi Đề-bà-đạt-đa thay nhau mỗi người cưỡi thử một lượt. Nhưng chưa ngồi yên được trên mình ngựa, đã bị nó hất xuống đất, mình mẩy lấm một lớp đất bụi và một lớp thẹn thùng. A-nậu-đà-la ngồi được trên mình ngựa một hồi. Chàng mở dây xích ở cổ nó, vói tay bịt lấy hàm ngựa, hai chân thủc mạnh vào hông, con vật bực tức nhảy lồng lên như một luồng gió bão. Nhưng bỗng nó đứng lại, hạ cổ xuống, bốn chân xiêu hẳn về đằng sau, và A-nậu-đà-la chúi nhào về phía trước đầu ngựa. Bọn kỵ mã hốt hoảng chạy ra giữ con quái vật lại, và mọi người đồng thanh kêu : “Hãy đem nó vào chuồng, đừng để Thái tử Tất-đạt-đa cỡi nữa!Nguy hiểm lắm!” Nhưng Thái tử truyền giữ nó lại. Ngài ung dung bước ra, nắm vào bờm nó, miệng lẩm bẩm vài lời dịu ngọt, tay phải vuốt ve từ đầu đến cổ, đến hông ngựa, và mọi người ngạc nhiên thấy nó đứng yên, hiền từ như đã quen với Thái tử lắm. Ngài nhảy lên mình ngựa, ngựa khoan thai đi giữa tiếng hoan hô của khán giả. Vua Thiện-giác hấp tấp chạy đến bên Thái tử, nói với một giọng đứt quãng vì sung sướng:

– Chừng ấy cũng đủ thấy tài vô địch của Thái tử rồi! Thôi, người hãy nhận lấy viên ngọc quý của nhà ta đi.

Trong lúc ấy, nàng Da-du-đà-la đứng dậy nắm lấy một vành hoa sứ, vén mảnh lưới đen viền vàng lên quá trán, rồi đi đến phía Thái tử. Tất-đạt-đa nhảy xuống ngựa, oai phong như một pho thần tượng, bộ áo vũ trắng nổi bật cạnh sắc đen nháy của lông ngựa. Nàng Da-du cúi mình rất thấp trước Thái tử, rồi nâng vòng hoa lên trong đôi tay rung rung vì cảm động, nàng quỳ xuống bên chân Ngài, mắt ngước lên, cổ vươn cao trong một niềm khát vọng tôn thờ, những tia hạnh phúc bừng sáng trong đôi mắt xanh ngời.

Thái tử đỡ nàng dậy, và tay trong tay, hai người tài sắc nhất của thành Ca-tỳ-la-vệ , bước song song đi giữa tiếng hoan hô của muôn vạn lòng sung sướng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/01/2013(Xem: 10731)
Cận cảnh tượng cụ Nguyễn Du bằng gỗ gù hương khủng ở Việt Nam
01/01/2013(Xem: 5595)
Ngày tôi còn học Y Khoa, ở khu Sản khoa thời đó ở miền Nam Việt Nam chỉ cho phép làm “abortion therapeutique”, với chữ ký cuả 3 vị Thầy đồng ý phải bỏ thai nhi để cứu mạng sản phụ. Và đây là chuyện rắc rối mà tôi đã gặp phải sau 1975 Anh chị M., đối với tôi là một cặp vợ chồng có tư cách rất đáng qúy, tôi luôn xem hai người như anh chị ruột của mình. Anh M., một Phật tử thuần thành, lớn hơn tôi 10 tuổi, tốt nghiệp đại học bên Pháp, là một người sống nhiệt thành vì lý tưởng, lập gia đình trễ, từng giữ chức vụ khá lớn thời Việt Nam Cộng Hoà. Năm 1980, khi mới ở tù cộng sản ra, tôi là người đưa chị M. đến nhà thương sanh con gái đầu lòng – cháu Phương Thanh (tên đã được thay đổi, không phải tên thật)
28/11/2012(Xem: 6936)
Nam Tuyền chém mèo (Nam Tuyền trảm miêu)[1]. 南泉斬猫 Bản tắc: Hòa thượng Nam Tuyền[2] nhân việc các học tăng ở đông đường và tây đường cứ tranh cãi nhau vì một con mèo, mới nắm ngay nó tại chỗ và giơ lên, nói: -Nếu có ai trong các ngươi nói được một câu nào, ta sẽ tha mạng con mèo. Bằng không, ta sẽ chém nó cho coi. Chư tăng không ai đáp lại được. Rốt cục, không còn cách nào, Nam Tuyền chém con mèo. Tôi hôm đó, đại đệ tử của ông là Triệu Châu ở ngoài về. Nam Tuyền đem chuyện vừa xãy ra kể lại. Lúc đó, Triệu Châu mới tháo đôi dép cỏ mang dưới chân đội lên đầu và ra khỏi phòng. Nam Tuyền thấy thế mới bảo: -Nếu ngươi lúc đó có mặt thì nhất định con mèo không đến nổi chết.
23/11/2012(Xem: 3296)
Tôi đang loay hoay quét mạng nhện trên trần nhà, chuẩn bị một cuộc tổng vệ sinh nhà cửa để đón cái Tết cổ truyền, chào mừng năm mới theo lệnh của cha. Út Huy đi học về lúc ấy, mặt chằm quằm một đống, liệng chiếc cặp lên chiếc ghế salon... rồi ngồi phịch xuống kế bên, thở dài nghe não ruột. Tôi ngưng tay chổi ngó nó từ đầu tới chân. Nó lấm la lấm lét nhìn tôi, lúng búng: “Anh Ba... anh Ba...” Đưa mắt nhìn nghi ngại, tôi bắt gặp ngay chuyện không vui. Hơi lo, tôi làm bộ hỏi: "Thì tao là anh Ba đây, có gì là lạ đâu? Mày sao vậy? Sao mà... như bị mất hồn vậy?” Chừng như thằng nhóc chỉ chờ tôi hỏi vậy, nói ngay: “Lão thầy đánh em, anh Ba à!” Tay nó xoa lấy mông, nước mắt lưng tròng.
09/11/2012(Xem: 6100)
Ngoảnh nhìn lại cuộc đời như giấc mộng. Được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không.
01/11/2012(Xem: 14536)
Tu sĩ vẫn không quay lại, đôi bàn tay với những ngón tay kỳ diệu bật lên dây đàn, mắt nhìn ra khung cửa tối - biển âm thanh xao động rồi ngưng lắng một lúc...
01/11/2012(Xem: 13736)
Khi Phật đã thành đạo và thành lập giáo đoàn với năm vị đệ tử tì kheo đầu tiên tại vườn Nai, mọi người dân Ấn vẫn chưa biết gì về Phật. Đến lúc giáo đoàn đông dần, và các vị đệ tử đầu tiên đã có đầy đủ khả năng và đạo hạnh để tự mình đi hành hóa các nơi, thì người ta mới bắt đầu nghe nói đến “Phật"! Cho đến gần một năm sau, khi Phật thu phục được ba anh em Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, tiếp đến là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, và sau đó không lâu là Đại Ca Diếp, thì tiếng tăm của Phật mới thực sự vang khắp bốn phương, trong triều ngoài nội ai ai cũng biết!
17/10/2012(Xem: 17241)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
10/10/2012(Xem: 11030)
Không hiểu tại sao người ta gọi con vật ấy là chó. Cái tên này không gây nên một ấn tượng đẹp theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhất là đối với tôi, một người không mấy ưa loài động vật này. Lý do, có lẻ từ một kỷ niệm thuở mới lớn.
21/09/2012(Xem: 4180)
Vừa rẽ vào đường hẻm nhỏ, chỉ một đoạn ngắn, chiếc xe Honda ngừng lại, tắt máy. - Đây rồi. Lữ khách ngồi sau xe bước xuống, lập lại lời người lái xe: - Đây rồi! Có phải đây là nơi chốn đã đến, đã biết đâu, mà sao xác nhận như đã từng!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]