Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 13: Thời gian tại ngoại

03/04/201313:11(Xem: 9032)
Chương 13: Thời gian tại ngoại
Vụ Án Một Người Tu

Chương 13: Thời Gian Tại Ngoại

Hòa Thượng Thích Như Điển
Nguồn: Hòa Thượng Thích Như Điển

Ông bà mình vẫn thường hay nói "nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại" đúng quá chừng. Một ngày ở trong tù dầu được tự do hơn những tù nhân khác; nhưng Sư Tịnh Thường vẫn thấy sao mà nó dài thế!

Cứ 6 giờ sáng có kẻng tập họp là mọi người nhao nhao ngồi dậy, kẻ đánh răng, người rửa mặt, súc miệng. Sau đó là tập thể thao, thể dục.

Đúng 8 giờ ăn sáng. 9 giờ đi học nghề, học chữa hoặc làm việc ở trong nhà tù. 12 giờ ăn trưa sau đó nghỉ cho đến 2 giờ và từ 2 giờ đến 5 giờ là giờ học và làm việc. 6 giờ chiều ăn tối. 7 giờ xem truyền hình công cộng cho đến 9 giờ và 10 giờ đi ngủ. Thời khắc biểu như thế, ai ở trong tù đều phải tuân theo; nếu không, sẽ bị kỷ luật. Sư thấy rằng thời khắc biểu ấy đâu có khác gì thời khắc biểu ở trong chùa mấy; nhưng sao thấy nó dài và lâu hơn gấp vạn lần. Đôi lúc Sơ ôn lại những bài học trong tứ thập nhị chương để tự an ủi mình. Trong ấy Đức Phật dạy rằng: "Người ở tù dầu có bao lâu, hết hạn tù sẽ được ra; nhưng người đã bị mắc vào đường tình ái rồi thì suốt đời không thể ra được". Đúng như vậy. So sánh cái nầy với cái kia Sư thấy hữu lý lắm. Nhiều lúc ở trong tù, Sư trông con chim bay trên trời, Sư ao ước được cái tự do của nó quá. Sư nghe tiếng nhạc du dương, Sư ước gì mỉnh sẽ vượt qua được không gian và thời gian ấy. Biết bao nhiêu điều ao ước đơn sơ như vậy nhưng Sư có thực hiện được đâu.

Rồi một hôm, bỗng nhiên Sư được văn phòng giám thị kêu lên giao cho một tờ giấy, trên ấy có ghi mấy chữ: "Tù nhân Trần Văn Nam được tại ngoại". Chỉ có mấy chữ vậy thôi. Không biết là nên vui hay nên buồn đây. Vì lẽ chốn tù đày lâu nay mình cũng đã quen rồi. Bây giời về lại nơi xưa, không biết có ai dung chứa mình không? hay lại bị xua đuổi nữa. Sư đang suy nghĩ vẩn vơ, bỗng ông Giám thị chìa bàn tay ra trước mặt Sư và nói:

-Tôi chúc ông trở về quê quán bình yên.

-Xin cảm ơn ông. Sư miễn cưỡng trả lời thế, đoạn siết chặt tay ông. Sau đó Sư lầm lũi trở về phòng thu xếp mới hành trang và rồi trại.

Đồ đạc của Sư chẳng có gì ngoại trừ mấy chiếc áo nhựt bình màu dà, mấy chiếc y màu vàng và một vài dụng cụ cá nhân của mình. Sư lục lạo thật kỹ trong cái bóp, thấy hình ảnh của song thân mình. Sư mủi lòng quá, đem tấm hình ấy áp vào mắt và tự nhiên giọt nước mắt lại lăn tròn qua hai gò má. Sư nghĩ, cha mẹ mình không biết giờ nầy đã ra sao rồi. Sinh con ra chưa nhờ vả được gì, mình đã xuất gia học đạo, rồi biền biệt nơi chốn thiền môn. Bây giờ ở ngoại quốc lại vào tù. Nếu mà ông bà ở nhà nghe được chắc ông bà thí chủ sẽ buồn lắm.

Chính những lúc cô đơn lạc lõng như thế này con người thường hay tìm về quá khứ và nhất là những người thân. Người đời thì có mái ấm gia đình để tìm về, còn Sư đây, không có ai hết cả. Bạn bè đồng tu ư? Họ đang dửng dưng rồi. Giáo Hội ư? Họ đã sợ mang tiếng nên không chở che gì cả. Phật Tử ư? Ai là người dám chứa mình đây?
Sau khi Sư Tịnh Thường rời cổng nhà tù, Sư đứng lại và quay về hướng nhà tù vẫy tay chào và nói: "Thôi tau chào mi. Dẫu sao đi nữa mi cũng đã cưu mang tau 7, 8 năm trường. Trong những năm tháng dài đăng đẵng ấy, chính mi là bạn tương đắc của tau, đã che chở nắng mưa cũng như trong sự cô đơn giá lạnh. Xin từ biệt mi".
Sư nói mấy lời như thế, rồi Sư quay mặt ra hướng không gian cao rộng nói lớn lên rằng: "Tự do thật quý hóa; nhất là những người đã mất tự do như tôi. Nhưng ai có lòng từ thiện ở đây? Phật Bồ Tát hay con người? Ai sẽ là người cứu giúp tôi đây?". Sư la to lên như thế, bỗng Sư dừng lại và từ từ nhìn khắp thân thể mình từ đầu chí cuối rồi tự nhủ:

Còn ai nữa, chính mình phải tự giúp mình mới mong thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử và chính mình mới có thể cởi trói cho mình mà thôi. Sư thấy có lý và lấy tay xoa vào đầu mình như thầm cảm ơn về những suy nghĩ ấy mà trí óc đã ban cho mình. Sư tư lự – chắc là mình phải đi cạo cái đầu trước khi mặc áo nhà tu trở lại; Nhưng Sư lại thôi và nghĩ rằng: Đi tu đâu phải chỉ để cạo đầu. Vì có biết bao nhiêu kẻ cạo đầu mà họ có tu đâu. Người đi tu cạo cái tâm quan trọng hơn cạo đầu. Sư nghĩ thế rồi mỉm miệng cười. Đúng vậy! Đường còn dài và đời còn lắm chông gai, mình phải phấn đấu lên. Đoạn Sư sờ vào túi áo của mình lấy mấy đồng bạc lẻ để gọi điện thoại.

Ở đâu đây kia một vị Trưởng Lão trả lời:

-Việc ấy chẳng có sao đâu! Thôi cứ về chùa ta mà ở, ta sẽ bảo bọc cho.

-Bạch Ngài! Ngài không sợ miệng lưỡi thế gian trách móc Ngài tại sao che chở cho một người tù à!

-Việc ấy đâu có gì quan hệ. Con sâu, con kiến, người tu còn phải che chở huống chi con người.

Sư cảm ơn Ngài và gác ống điện thoại, ngẩn ngơ một lúc rồi suy nghĩ: "Quả thật thế gian nầy vẫn còn những con người tốt đẹp như thế, chứ đâu phải tâm ai cũng nhuộm chàm như ta vẫn thường nghĩ đâu! Trong chốn khổ đau vẫn có những người thoát tục. Trong nhiều người gian dối, cũng có lắm kẻ thật thà… Sư bây giờ suy nghĩ nhiều lắm. Mỗi lần suy nghĩ lại gợn lên một vết nhăn trên vầng trán rộng ấy. Nhiều khi Sư tự nhủ rằng: Phải chi ở trong tù sướng hơn, vì thân phận ai cũng giống nhau. Bây giờ về lại thế giới tự do với phương trời cao rộng nầy thấy khó xử quá.

Một hôm có một bà Phật Tử đến chùa thăm Sư cụ rồi gặp Sư hỏi:

- Con nghe nói rằng Sư đã về; nhưng bản án ấy dành cho ai Sư?

-Án nào bà thí chủ?

- Thì cái án mà Sư đã mang lâu nay đó?

- Chắc bà thí chủ muốn nói đến việc họ cho rằng tôi giết người ấy à?

- Đúng vậy, thưa Sư!

- Nếu tôi là kẻ giết người, tôi phải đền tội trước Pháp luật; nhưng vì bằng chứng không rõ ràng nên tôi được tại ngoại, chỉ đơn giản thế thôi.

- Theo Sư, thì nội vụ ra làm sao?

- Ai mà biết được. Chỉ có người gây ra câu chuyện ấy mới biết mà thôi.

- Nhưng ai đã gây ra?

- Điều ấy còn nằm trong vòng nghi vấn mà.

- Theo con nghĩ là Sư bây giờ có thể kiện lại họ được đó.

- Kiện ai?

- Kiện người đã giam Sư, làm cho Sư mất tự do 7, 8 năm trường và con nghĩ rằng số tiền ấy lớn lắm Sư ơi!

- Theo tôi nghĩ: việc ấy đã đủ cho tôi đớn đau rồi. Làm chi cho kẻ khác tan gia bại sản nữa. Vả lại chính tôi cũng là người có lỗi nữa. Lý do chính là tại chuyện vàng bạc hột xoàn, mà người đi tu không nên và không bao giờ chứa chấp nó để làm gì. Điều ấy Phật đã dạy; nhưng khi ra xã hội nầy, chính tôi cũng quên mất đi. Ban đầu tôi nghĩ rằng chính bạc vàng sẽ cứu tôi trong cơn khốn khổ. Nhưng tôi đã lầm. Chính nó là con rắn độc đã hại tôi và bây giờ tôi là một con người chưa được phục hồi danh dự lại như xưa; nên tôi cũng không muốn ai vào tù ngồi thế cho mình cả, khi sự kiện chưa rõ ràng thì mình cũng không dám nghi cho ai nữa. Vì nghi ngờ đã là một cái tội rồi.
Sau khi biết tin Sư được tại ngoại, Sư đã nhận được không biết bao nhiêu cú điện thoại hăm dọa, bảo rằng hãy câm miệng lại không được tiết lộ một chi tiết nào cả trong vụ nầy. Nếu tiết lộ Sư sẽ bị mất mạng.

Nhiều đêm Sư giật mình tỉnh giấc, nghĩ lại giấc mộng xưa và nay quá hãi hùng. Sư có ý quyên sinh để cho đời khỏi dị nghị và khỏi nghe những tiếng thị phi to nhỏ của người đời; nhưng Sư cũng tự trấn tĩnh với mình rằng: đã bao nhiêu khó khăn gian khổ trôi qua mà Sư còn gượng sống để xem tấn tuồng đời sẽ tái diễn ra sao, thì bây giờ và nơi đây, tại sao Sư phải thực hiện điều ấy? Không! đó chỉ là một ý nghĩ điên rồ thôi! Sư tự nêu ra câu hỏi, rồi biện hộ, rồi tự mình trả lời câu hỏi mình đã nêu ra. Điều nầy Sư đã quen làm như thế. Vì bên cạnh mình chẳng có ai giúp đỡ ý kiến; nên Sư phải làm như thế.

Bỗng một hôm Sư đang ngồi lễ Phật, có một nhà Sư mặc áo vàng trờ tới trước Sư. Người ấy mang kính mát và hỏi Sư với giọng điệu lố lăng:

- Tại sao mi đến chùa nầy với ý đồ gì?

- Mô Phật, người tu hành sao ăn nói gì kỳ vậy?

- Mầy bảo ai tu hành? Mầy là thằng ăn cướp, mầy là thằng giết người. Còn mặt mũi nào mầy về đến chùa này để quấy phá Sư Tăng?

Sư nghe như điếng cả hồn mình. Chân tay Sư bủn rủn. Nghiệp duyên nào đã dong rủi mình làm người? Bây giờ đây, mình muốn trở về lại với con người nguyên thủy của mình lại bị chính người đồng môn, đồng cảnh nguyền rủa. Ôi! khổ đau biết dường nào! Nhưng cuối cùng rồi Sư cũng tự cứu được mình bằng cách im lặng. Vì nếu có trả lời, có biện hộ cũng đâu có ai hiểu cho mình được, nên lại thôi. Chỉ có thời gian mới có thể giúp Sư. Còn con người, sao mà lại tệ bạc quá?

Rồi một hôm Sư đi trong một xe Bus, phía trước có hai người đàn bà Việt Nam ngồi nói chuyện mà họ không để ý đến sự hiện diện của Sư.

Một bà kể:

- Chị ơi! Bà có biết vụ án một nhà Sư giết người không?

- Nhà Sư làm sao giết người được?

- Vậy mà chuyện có thật đó.

- Tại sao vậy?

- Tại vì tu không lo tu. Lo đi mua vàng sắm bạc. Buôn bán như người đời, đến khi ăn thua không được với người ta lại cướp của giết người.

- Đời nầy sao lắm Sư hổ mang thể?

- Ở đâu cũng có loại sâu bọ ấy chị ơi.

- Nếu tôi là người tu ấy thì phải tự sát, hoặc tự treo cổ để chết, mà đời còn chưa hết nguyền rủa nữa.

Sư ngồi đó mà trông như người trên bếp lửa nóng hơ. Bây giờ Sư phải làm sao đây? Tiến tới nơi hai bà kia để phân trần hay ngồi đây để chịu trận nghe tiếp tục nữa? Kế nào cũng không hay bằng đào tẩu là thượng sách. Mặc dầu chưa đến chỗ Sư muốn xuống xe như thường lệ; nhưng Sư đã bấm chuông để tài xế dừng xe lại. Sư xuống xe rồi đi lang thang như người không hồn và suy nghĩ miên man về thế thái nhân tình, về miệng lưỡi thế gian. Sư cũng đâu có độc ác với ai, mà tại sao mọi người lại độc ác với mình đến thế? Vả chẳng tại mình tu. Nếu mình không tu, chắc không ai để ý làm gì? mà đúng vậy. Người tu giống như tờ giấy trắng, lỡ dính một chút bụi là thiên hạ thấy liền. Còn người đời, bao nhiêu bụi bặm dính thêm vào chiếc áo trần tục ấy, đâu có sao? Nghĩ vậy nên nhiều lúc Sư cũng muốn ra đời, không nhứt thiết phải đi tu nữa. Nhưng đó cũng chỉ là một ý nghĩ trong muôn ngàn ý nghĩ khác thôi. Sư lại dừng và tự biện hộ cho mình là tại sao suốt 7, 8 năm trường trong nhà tù mình vẫn còn giữ được tư cách của một nhà tu. Còn bây giờ tại sao mình lại buông thả?

Mỗi suy nghĩ đưa Sư về một lối thoát khác nhau; nhưng lối thoát nào Sư cũng thấy không an ổn. Lối thoát duy nhất là cửa thiền; nhưng cửa thiền lại dính bụi. Vì thế bất cứ nơi đâu, và ở đâu Sư Tịnh Thường cũng thấy lẻ loi vô cùng. Sư đâm ra suy nghĩ vẩn vơ như người không trí, không hồn. Nhiều khi Sư đi suốt ngày không về chùa. Sư bỏ ăn, biếng ngủ và không thiết gì đến hoàn cảnh chung quanh.

Một hôm nọ, vì suy nghĩ vẩn vơ, lúc băng qua đường Sư chẳng để ý là đèn đỏ. Một chiếc xe phía trước trờ tới. Sư gượng lại không kịp, thế là hết, Sư đã nằm sóng sã trước mũi xe, Sư bất tỉnh nhân sự. Chừng 3 phút sau thì xe cứu thương chạy đến, nhân viên cấp cứu khiêng Sư lên xe và hụ còi chạy vào một bệnh viện gần đó.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7630)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8509)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7302)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6205)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7095)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5342)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4027)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8724)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23236)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4686)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]