Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 10: Miệng lưỡi thế gian

03/04/201312:47(Xem: 9192)
Chương 10: Miệng lưỡi thế gian
Vụ Án Một Người Tu

Chương 10: Miệng Lưỡi Thế Gian

Hòa Thượng Thích Như Điển
Nguồn: Hòa Thượng Thích Như Điển

Đúng là: "lưỡi không xương nhiều đường lắt léo". Ai biết cho đâu là sự thật và đâu là mặt trái của vấn đề. Thường thì vấn đề đôi khi nó có cả ba hay bốn mặt chứ không phải chỉ trắng hoặc đen, có hoặc không như bao nhiêu người tưởng. Còn ở đây, vụ tiệm vàng bà Bảy Diệu Đạo bị mất cắp, thanh toán giữa ban ngày, mà kẻ giết người không ai khác hơn là một nhà Sư. Nghe rùng rợn quá, khủng khiếp quá! Tại sao nhà Sư lại đi làm việc đó? Sư đi tu rồi cần vàng bạc để làm gì? v.v… và v.v…

Báo chí lúc bấy giờ ở xứ tự do nầy thôi thì tha hồ thêu dệt gấm hoa, tờ nào bán cũng chạy còn hơn tôm tươi nữa, vì vụ án ly kỳ và hấp dẫn quá. Chắc trong lịch sử chưa bao giờ có sự kiện như vậy.

Có nhiều tờ báo diễn tả lại hết tất cả những sự kiện đã xảy ra và đi đến hiện trường để quan sát, tìm thân nhân để phỏng vấn và đi đến kết luận xác thực rằng. Chính Sư là người đã ăn cướp và giết người, vì hai lý do sơ khởi đã được tìm thấy. Đó là vàng bạc và hột xoàn đã tìm thấy trong đãy đựng y áo của Sư. Nếu không phải Sư lấy của tiệm, vừa định bỏ chạy thì bị một toán cướp khác vào ăn thua đủ với Sư, nên Sư mới để lại hiện vật nầy và điều thứ hai làm cho chứng cớ càng rõ rệt hơn là: cả chiếc áo nhựt bình của Sư đều dính máu và dấu tay của Sư in đầy dẫy khắp mình của nạn nhân. Ngoài ra máu cũng đã dính trên cặp kính trắng của Sư. Chứng tỏ Sư là một tay lực sĩ đắc lực, nên mới có thể hành hung bà chủ tiệm vàng đến thế.

Họ đi đến kết luận là Sư đã giết người. Thế là họ tiếp tục khai thác, họ tìm đến chùa, tìm đến thân nhân để tiếp tục tìm thêu dấu vết thuộc về sự kiện nầy.

Khi đến Tịnh Xá phỏng vấn, các Sư đều có ý e dè, không muốn trả lời; nhưng Sư Chơn Nghĩa thì sẵn sàng lên tiếng, dẫn nhà báo vào phòng của Sư ở, chụp hình, tra cứu lung tung và lục lọi trên giường dưới gầm tủ v.v… chẳng lục lọi được gì cả, ngoại trừ một chiếc búa. Thế là báo chí lại có đề tài để tiếp tục phanh phui sự việc ra to lớn hơn nữa.

Những câu hỏi được đặt ra là: Nhà Sư tu hành nhưng cất búa dưới gầm giường để làm gì? Để thanh toán đồng bọn? Họ có hiềm khích nhau trong một ngôi chùa? Hay chính Sư đã chuẩn bị một màn kịch lâm ly bi đát, mà đạo diễn chính, ấy là Sư? Không biết cái búa tạ đập vào đầu bà Bảy Diệu Đạo có liên quan gì với cái búa nầy không? v.v… và v.v…

Cũng có nhà báo tò mò tìm đến phỏng vấn các vị Sư trưởng thượng của môn phái mà Sư đang phụng thờ; nhưng quý vị nầy cũng có hai, ba khuynh hướng khác nhau. Có người bênh vực Sư; nhưng đa số vì sợ liên quan đế pháp luật; nên lại rụt rè không trả lời. Có nhiều nhà Sư hung hăng hơn, nói với báo chí rằng: Chính Sư Tịnh Thường là thủ phạm. Vì tu hành gì mà giữ dao búa để làm gì? Vả lại trong thời gian ở chùa lúc nào Sư cũng nói đến chuyện tiền bạc và luôn luôn khoe khoang là người có của. Đúng là vàng bạc nó đã hại Sư rồi. Ai bảo đi tu mà còn ham của quý. Phật đã chẳng dạy rằng: Vàng bạc là con rắn độc sao?

Thôi thì đủ loại, đủ kiểu, miệng lưỡi của thế gian mà, một thêm mười. Mười thành trăm. Cứ thế mà câu chuyện càng hấp dẫn, đi vào chỗ lâm ly bi đát.

Khuynh hướng bênh vực cho Sư cũng có nhưng yếu lắm. Đại thể có vài tờ báo đạo và có vài người Phật Tử thuần thành bênh vực cho lý lẽ nầy.

Họ nói rằng:

Không thể nào có được việc ấy. Một nhà tu nhất là đã tu hành mấy mươi năm, con kiến còn không muốn giết, đi khất htực tiền bạc không lấy và gặp thịt thà không ăn. Một người tu có lòng thương đến chúng sanh như thế, làm sao có thể giết được một mạng người, mà người ấy chính là tín chủ của mình. Còn cái búa ư? Đó chưa phải là một tang chứng cụ thể. Biết đâu trong chùa có ai ganh ghét với Sư nên mới bày ra diệu kế đó?

Có người bảo rằng: Đi tu đâu có cần tiền bạc để làm gì? Nếu có cũng chỉ để xây chùa cho Phật Tử lễ bái mà thôi. Nếu lỡ Sư có chuyện nào đó thì mình cũng phải minh oan cho Sư chứ? Đây là khuynh hướng thứ ba.

Còn có một khuynh hướng khác mạnh dạn hơn, đi vận động chữ ký để tranh thủ nhân tâm thế sự về cho Sư, chứng minh rằng Sư hoàn toàn vô tội và đóng tiến bạc để cho Sư được tại ngoại hầu tra. Đề xướng thì như vậy; Nhưng người làm thì không ai dám hy sinh. Vì sợ miệng đời, mà cũng sợ gia đình nạn nhân nữa.

Còn phía gia đình nạn nhân thì sao?

Sau khi bà cụ bị chết oan uổng như thế, dĩ nhiên là con cái pảhi buồn rầu rồi. Nhưng đa số, ai trong gia đình cũng đều kết tội cho Sư Tịnh Thường chính là nguyên nhân của thủ phạm và đã dẫn đến cái chết tai hại cho bà, cho mẹ của gia đình họ, mặc dầu trước đây không lâu, trong đám dâu con họ đã có cảm tình với Sư. Đúng là "lòng người đen bạc, thế sự nhiễu nhương". Nào ai biết được lòng người! "Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê".

Một hôm nọ có hai bà Phật Tử đi chùa và xì xầm với nhau rằng:

- Chị có biết không? Cái ông Sư Chơn Nghĩa ấy ác lắm! Người ta đã thọ nạn, mà còn thêm mắm giặm muối nữa, để cho Sư Tịnh Thường không có ngày ra.

- Nhưng tại sao vậy chị?

- Nghe đâu chuyện tình, chuyện tiền gì đó?

- Mình đi chùa, nghe quý Thầy giảng về chuyện nầy rất nhiều. Bây giờ chính quý Thầy là những người bị mắc mạn đó.

- Thì quý Thầy, quý Sư cũng người vậy thôi, chứ bộ là Thánh đâu mà không bị nạn.

- Đúng thế! Phật ngày xưa còn phải bị nạn, và Tam Tạng đi thỉnh kinh còn phải bị thất điên, bát đảo vì yêu nghiệt trong đời. Nhưng nếu không có ma vương, làm gì ý nghĩa thành đạo của Đức Phật được chói lọi như thế? Nếu không có yêu quái và mỹ nữ, ý nghĩa thỉnh kinh của Đường Tăng đi sang Thiên Trúc đâu còn có giá trị gì?

- Chị nói cũng phải; nhưng nói gần là chuyện của Sư nhà mình đây, theo ý chị thì sao?

- Ừ! Thì cũng khó thiệt; nhưng theo tôi nghĩ sự thật bao giờ cũng là sự thật.

- Nhưng bao giờ sự thật mới được phô bày?

- Chị thấy đó, Quan Âm Thị Kính cứ giữ nỗi hàm oan, cho đến cuối đời thì người đời đã rõ đâu là tà, đâu là chánh.

- Nhưng đó là Bồ Tát tái sanh để độ người, còn đây là Sư. Sư nhà mình mà chị?

- Thực là khó xử quá! Phải chi lúc đó có người thứ 3 nữa thì nội vụ đã được sáng sủa rồi.

- Nhưng chị có nghĩ rằng đàng sau đó, nếu chị nghĩ là có nhân chứng thứ 3 đi chăng nữa, có chuyện gì mờ ám chăng?

- Có ai tham khó phụ bần? Có ai dửng dưng trước sắc đẹp không chị?

- Không lẽ chị muốn nói đến việc con cái chúng muốn thanh tón nhau để chia của cải à?

- Nhưng tại sao không? Chị thấy đó. Ở xứ nầy nó xảy ra nhan nhản hằng ngày. Con giết cha, vợ giết chồng, anh em bè bạn thủ tiêu với nhau; nhưng phải qua một bàn tay thứ 3 để tránh tiếng dị nghị với đời.

- Vậy theo chị, chắc có gia đình nhúng tay?

- Điều ấy chưa hẳn thế! Nhưng nghi thì cứ nghi.

- Chị không thấy nghi là một cái tội không?

- Nhưng nghi ai bây giờ, nghi để làm gì?

- Còn Sư, lâu nay Sư có biện bạch gì không chị?

- Tôi thấy êm ru, chẳng có tin tức gì hết. Sư qua đây tứ cố vô thân, không nơi nương nhờ, mới tìm cách ở chung với quý Sư đó cho đỡ tốn kém, rồi bây giờ tìm cách ở riêng nên mới ra nông nỗi nầy.

- Theo chị thì chị em mình nên tính sao đây?

- Tìm cách đi thăm Sư chứ làm sao nữa!

- Nhưng ai là người vận động việc ấy đây?

- Cũng khó thật; nhưng không lẽ để Sư như vậy à?

Người nầy nói qua, người kia bàn lại; nhưng rốt cuộc rồi đâu cũng vào đó cả. Bỗng một hôm có một tờ báo loan tin rằng: Vụ án nầy, phía sau có nhiều nghi vấn. Người ta cố đọc cho hết bài, mà cũng đúng là nghi vấn thật.

Chẳng có câu giải đáp nào cả. Nếu có, cũng chỉ nằm trong vấn đề nghi vấn mà thôi.

Trong khi đó tiệm vàng của bà Diệu Đạo sau khi đã niêm phong điều tra, bây giờ luật sư đã giao lại cho con cái của bà cái trách nhiệm thừa kế. Vì lẽ bà Diệu Đạo chưa có di chúc cho đứa con nào cả; nên theo lời đề nghị của luật sư, tài sản đều được chia đều cho con cái trong gia đình; nhưng việc ấy đâu có đơn giản, trong khi người con cả dành phần nhiều về mình và đứa con gái cũng đòi hỏi nam nữ bình quyền, nên trai gái phải chia đều nhau. Từ đó có màn tranh cãi nhau và đây cũng chính là cơ hội để luật sư ăn tiền của thân chủ mình mà thôi. Cuối cùng rồi ngư ông đắc lợi thôi, chỉ có ngao sò là bị thiệt. Điều ấy hẳn đúng, gia phong của bà Diệu Đạo giờ đây sa sút lắm, nhất là khi bà mất đi, anh em tranh giành của cải với nhau, bạn bè đàm tiếu, người đời chê cười, chỉ có lợi cho thị phi nhơn nghĩa mà thôi.

Còn Sư? Sư cô đơn lắm, kể từ ngày vào nhà thương ấy, bà Diệu Đạo đi vào cõi chết, Sư vẫn còn sống đây; nhưng sao như kẻ không hồn. Theo Sư, vụ án sẽ được sáng tỏ, chỉ cần một điều duy nhất là bà Diệu Đạo còn sống; nhưng chuyện ấy thì vô lý quá. Người chết đâu có bao giờ sống dậy được? Đặt giả thiết như vậy cũng như là việc đã rồi. Vả lại chẳng giải quyết được chuyện gì cả?

Riêng Sư, Sư chỉ mong thế thôi. Sư mong rằng bà Diệu Đạo sẽ về báo mộng cho con mình là đã chết oan và người giết ấy không phải là Sư. Chỉ thế đó là đủ. Còn luật pháp, nếu có kết tội Sư cũng không sao! Vì tang chứng vẫn còn đó làm sao chối cãi được theo sự biện hộ của công lý bây giờ.

Có nhiều bà Phật Tử đề nghị với Sư, hay là bây giờ mình nên cầu cơ, để nhờ cơ giáng bút và mời luật sư tới để cho họ chứng kiến.

Bà khác lại chen vào:

- Chị thấy đó, nội cái vụ cạo gió khi có bệnh của người Việt Nam mình, mà Bác sĩ ở đây còn đòi làm "ăng kết". Còn cái vụ cầu cơ, xin cho em nhờ thôi.

- Chị nói vậy chớ Phật Giáo Tây Tạng, nhất là khi có quốc sự nhiễu nhương, Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn hỏi người cốt đó sao! Người cốt cũng là loại gần giống như đồng bóng ở mình vậy!

- Nhưng ở Tây Tạng và ở Việt Nam hay Trung Hoa khác, còn ở đây là xứ văn minh Âu Mỹ mà! Ai đi tin mấy loại đó?

- Chị nói vậy chứ mấy người Tây, người Mỹ vẫn tin xem bói, tướng như thường.

- Chị thấy không? nội cái chuyện châm cứu đó đã thấy khó rồi.

- Ở mình, nếu có đau đầu nhức óc gì đó thì uống thuốc Bắc hoặc đến chùa nhờ Thầy châm cứu là hết ngay. Còn ở đây châm chứu cũng phải có bằng cấp. Thậm chí mấy người hốt rác, mấy người lái Taxi cũng phải có bằng mới làm được những công việc ấy mà.

- Đã đành là vậy, còn nước còn tát. Chứ không lẽ để Sư nằm trong khám hoài như vậy?

- Thiệt là tức, mình thấp cổ bé họng. Tiền đã không có mà thế lực cũng không! bây giờ phải biết làm sao đây? Một bà thốt lên như vậy.

- Người khác bảo, thì mình cứ chấp nhận cho nghiệp lực đã an bày!

- Nhưng thưa bà, mình có thể tự chuyển nghiệp của mình được mà bà?

- Nhưng oan ức không cần biện bạch, cũng là hành động tốt cho đời noi theo thôi.

- Nhưng ở đây chúng ta không muốn thấy Sư khổ!

Bao nhiêu câu hỏi, bây nhiêu câu trả lời; nhưng tất cả đều im lặng, chờ đợi pháp luật phân minh. Đó cũng là cách làm việc tại xứ nầy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2014(Xem: 7203)
Qua không quen Mận mà biết Đào - đứa con gái 25 tuổi của Mận - qua một số lần giao dịch mua bán nhà. Đây là việc làm thêm nhưng lại là thu nhập chính của Đào (và Mận). Qua những thương vụ làm ăn chung, Đào tỏ ra là người nhanh, nhạy, thông minh và sòng phẳng.
23/06/2014(Xem: 4712)
Chiều nay, một chiều thật an bình, dưới bóng râm mát diệu của những tàn cây xanh, lồng lộng tiếng chim như trĩu thanh âm xuống phòng khách bên trong một ngôi đạo tràng. Bình trà đã rót nhiều lần, nhưng hương vị trà hãy còn thấm đậm theo dòng thế sự hoài niệm cổ kim.
21/06/2014(Xem: 9960)
Chúng tôi, Nhóm Học Phật chùa Quang Nghiêm, gồm một số thân hữu và những huynh trưởng Gia Đình Phật Tử trong vùng có cơ duyên gần gũi và học hỏi cùng thầy trong nhiều năm qua. Nhân đó, chúng tôi được biết, Thầy là một cây viết thường xuyên trên tập san: THEO DẤU CHÂN XƯA của Phật học viện Huệ Nghiêm, SÀI GÒN trước 1975. Nhưng sau những đợt đốt sách của chính quyền Cộng Sản, THEO DẤU CHÂN XƯA không còn nữa. Càng gần Thầy, chúng tôi nhận thấy những gì Thầy dạy và viết thật thực tế và giản dị trong việc áp dụng Đạo Phật vào đời sống hằng ngày cho chúng ta. Chúng tôi không muốn có sự thất thoát như xưa, nên mạo muội sưu tập một số bài mà Thầy đã viết trong thời gian qua. Đây là một món quà tinh thần của Thầy mà chúng tôi đã rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống hàng ngày. Có một điều quan trọng nữa là bài học thân giáo của Thầy: phong cách hiền hòa và đức độ lan tỏa từ Thầy êm đềm như dòng sông Thu Bồn xứ Quảng. Trong bất cứ lúc nào, nếu có dịp, Thầy thường nhắc nhở: “Học Phật có n
20/06/2014(Xem: 10587)
Thuở xưa có một con rùa, vào một buổi chiều đi kiếm mồi bên một cái đầm vắng. Một con dã can cũng đi kiếm mồi cạnh cái đầm ấy. Con rùa lanh lợi kia vừa thấy dã can từ xa đi tới thì nghĩ rằng : “Dã can nầy đã từng gây hại cho loài của ta, vậy nay ta phải thận trọng.” Nghĩ vậy con rùa bèn thâu bốn chân và thứ năm là cái cổ vào trong chiếc mai rắn chắc của mình, rồi nằm im bất động.
20/06/2014(Xem: 4720)
Gia đình là nền tảng của xã hội. Muốn tạo dựng một xã hội phồn thịnh an vui, có lẽ ta cần phải có thật nhiều mái ấm gia đình mới phải. Thế nhưng trong thực tế thì than ơi, ta chỉ gặp toàn những gia đình tiêu biểu cỡ anh chồng Nguyễn văn Đầu Vịt và chị vợ Trần thị Lá Sen như câu chuyện Mái Ấm Chợ Chiều dưới đây.
16/06/2014(Xem: 13516)
Chuyện Thiền Môn là những câu chuyện do chúng tôi biên soạn. Những mẫu chuyện nầy đã đăng rải rác trong các Bản Tin Đại Tòng Lâm Phật Giáo. Bắt đầu từ số 17 cho đến số 29. Mỗi Bản Tin được kèm theo trong tờ Đặc san Phước Huệ phát hành ấn tặng mỗi kỳ vào các dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Tuy là câu chuyện dài nhưng mỗi kỳ đều có mỗi chủ đề khác nhau. Những nhân vật trong câu chuyện không phải là những nhân vật có thật ở trong đạo, nếu có sự trùng hợp thì đó chẳng qua là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của bút giả. Chúng tôi dựa vào một vài nét sinh hoạt thực tế cụ thể trong thiền môn mà viết thành qua mỗi chủ đề khác nhau. Mỗi chủ đề tuy có khác, nhưng những nhân vật trong cốt chuyện trước sau đều có sự hoạt động liên tục. Qua mỗi câu chuyện, chúng tôi cố gắng diễn tả theo từng tâm trạng và hoàn cảnh của mỗi nhân vật hay thường xảy ra trong chốn thiền môn.
16/06/2014(Xem: 6845)
Tập sách nhỏ nầy chúng tôi ghi lại những ngày lang thang rày đây mai đó trên đất Mỹ. Đây là chuyến đi Mỹ lần đầu tiên của chúng tôi. Như những chuyến đi lần trước mà chúng tôi đã có dịp đi qua các nước: Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, cứ mỗi chuyến đi tôi đều có ghi chép lại những gì đã xảy ra trong suốt cuộc hành trình. Lần nầy cũng vậy. Tôi cũng muốn ghi lại những việc xảy ra từng ngày. Đến đâu, ở đâu, làm gì ... tất cả, chúng tôi đều có ghi lại đầy đủ. Do đó, quyển sách nầy với hình thức giống như là một quyển nhật ký hay ký sự hơn là quyển sách mang tính chất nghiên cứu. Trong sự ghi chép đó, nơi nào có liên quan đến những địa danh mà chúng tôi tới viếng thăm, chúng tôi đều có sưu tầm một số ít tài liệu để dẫn chứng. Tôi nghĩ rằng, chuyến đi nào cũng có ít nhiều kỷ niệm vui buồn. Cuộc đời tương đối không sao tránh khỏi. Mục đích của chúng tôi là muốn lưu lại một vài hình ảnh kỷ niệm thân thương qua những nơi mà đoàn chúng tôi đã đến.
10/06/2014(Xem: 8097)
Hai dì vãi chùa tôi tuổi đời đều đã trên 70. Về sự kính Ôn, trọng thầy, thương chú và đùm bọc điệu hai dì như nhau. Về sự siêng năng, chịu khó, tiết kiệm, giữ của cho chùa hai dì bằng nhau. Về vóc hình nhỏ nhắn hai dì giống nhau. Về chiều cao khiêm tốn hai dì ngang nhau. Thời Ôn (cố) còn sống, có mụ nhà quê lâu lâu mới lên thành phố tìm đến viếng chùa rồi gặp Ôn trú trì, sau khi đảnh lễ, mụ nói một câu tỉnh rụi về hai dì vãi chùa tôi: Ôn có “cặp sanh đôi” trông vui mắt, hí.
04/05/2014(Xem: 16296)
Hằng năm tại Thụy Sĩ nói riêng, Âu Châu nói chung, nhằm vào lễ Phục Sinh được nghỉ 4 ngày liên tiếp từ thứ 6 đến thứ 2, thiên hạ thường nô nức mua sắm, du lịch hay tiệc tùng ăn nhậu..v.v..và..v.v.. để đền bù và thưởng thức cuộc sống cho bõ những ngày tháng làm việc mệt nhọc mà họ cho là "đi cày" vất vả.
15/04/2014(Xem: 4981)
Thiên tình sử Truyện Hoa Lan không biết đã cướp mất bao nhiêu thì giờ quí báu của các bạn, chứ riêng tôi bị mất nhiều công sức lắm. Chẳng là Mỗi tuổi nó đuổi xuân đi, đuổi nhanh đến độ mỗi sáng tôi phải ngồi nhổ tóc bạc đến mỏi cả tay, đến mờ con mắt mà vẫn chưa xong.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]