Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 7: Thi thố tài năng

03/04/201312:28(Xem: 9570)
Chương 7: Thi thố tài năng
Vụ Án Một Người Tu

Chương 7: Thi Thố Tài Năng

Hòa Thượng Thích Như Điển
Nguồn: Hòa Thượng Thích Như Điển

Khi đến với xã hội văn minh Tây phương, Sư Tịnh Thường điều đầu tiên là làm quen với khí hậu và ngôn ngữ. Ở đây 2 điều nầy bất cứ một người tạn Việt Nam nào cũng phải đương đầu với nó. Một là giỏi, hai là dở. Cũng có loại lưng chừng; nhưng trường hợp nầy cũng ít lắm.

Đôi khi ngồi trong phòng nhìn ra từ cửa sổ nhân một lúc tuyết rơi vào mùa đông giá lạnh, Sư cảm thấy nhung nhớ bạn đạo của mình, người đã cưu mang mình không biết bao nhiêu thứ nên Sư Tịnh Thường đã viết thư về Việt Nam kể lại như sau:

"Quê hương thứ hai, ngày… tháng… năm…
Sư huynh Tịnh Đạo thân mến,

Lâu quá không viết thư về thăm Sư, không biết Sư huynh và các huynh đệ khác cũng như chùa mình có gì thay đổi không? Hôm nay có vài việc vui buồn lẫn lộn, đệ biên về cho huynh đây. Mong huynh đọc và hồi âm cho đệ để đọc cho đỡ nhớ nhung.

Khi mới tới đây, cái gì cũng lạ cả, lạ từ cái ăn, cái nói, cái chào, cái hỏi, cúi cử chỉ v.v… khiến cho một người tu như đệ cảm thấy khó chịu lạ thường. Ví dụ như ở đây họ ít ăn cơm, mà ăn toàn là bánh mì, uống toàn bằng sữa bò. Rau cải thì rất ít; nhưng thịt cá thì ê hề. Ở đây đâu có chế độ đi khất thực như ở Việt Nam mình. Vì mỗi tháng họ đã cho đủ tiền ăn tiêu rồi, mình phải tự nấu lấy. Đôi khi đệ kêu tụi nhỏ Phật Tử đủ loại đến chơi vào cuối tuần rồi bày đặt nấu nướng và cúng quải cho vui. Chùa chiền ở đây cũng chẳng thấy, chỉ thấy toàn là nhà thờ.

Một hôm đệ cảm thấy nhớ nhung cuộc sống của Du Tăng Khất Sĩ mình quá, nên đệ bố thí một sốt Phật Tử thanh niên đi ra ngoài phố chờ sẵn ở gần vài ba cửa tiệm. Còn đệ thì y áo chỉnh tề, chân không, hai tay mang bình bát vào thành khất thực. Vì tụi nhỏ đã thủ sẵn mọi thứ đồ, nên chỉ đi trong vòng nửa tiếng đồng hồ là đầy bình, mang muốn không nổi, đâu phải đi lâu như ở quê mình.

Mọi người dân địa phương tò mò đến dòm. Có nhiều em giỏi tiếng địa phương đứng ra giải thích; nhưng có người nhún vai, có kẻ nói thêm vài câu gì đó, bọn nhỏ cũng không hiểu hết trọn câu. Thế là Thầy trò, sư đệ kéo về lại trại t nạn, đến trước bàn Phật trong phòng đệ để tụng một thời kinh rồi bày ra ăn uống. Tất cả đều vui vẻ cả làng.

Chỉ có ngặt một điều, tụi nhỏ nầy cũng không thuần giống nên kinh kệ nào cũng chẳng thuộc, Đại Thừa cũng không biết, Tiểu Thừa cũng không rành. Còn kinh của chúng ta, tạm gọi là "Trung Thừa" đi, các Phật Tử nhỏ nhỏ nầy lại càng mù tịt. Đệ biết phải làm sao đây? Nhưng không sao! Đệ đã có cách, thế nào rồi Sư huynh cũng sẽ nhận được tin tức từ đệ về việc nầy.

Đó là chuyện ăn, chuyện đi hóa đạo. Bây giờ đệ kể cho huynh nghe về chuyện học và chuyện giao tế bên ngoài nghe.

Cái ngôn ngữ gì mà nó khó nuốt muốn chết. Học chữ đầu quên chữ đuôi, được chữ giữa quên tuốt cả hai đầu. Uốn cái lưỡi bên nầy, dẹo cái cổ bên kia, mỏi cái miệng muốn chết, thế mà khi về nhà rồi vất cái vở là ai nấy đều lo bu đến bên truyền hình, thế là xong. Mặc dầu xem truyền hình cũng chẳng hiểu gì cả; nhưng ít ra có một ít hình ảnh cũng đỡ chán đi. Tụi nhỏ khi nào xem hình, xem cảnh chán thì nghe nhạc, lúc ấy thì đệ rút về phòng để làm một vài công việc nhặt nhạnh khác. Ví dụ như chuẩn bị kho một bát tương cho thật thấm thía, tìm một miếng đậu hủ cho thật tươi hay qua bà nhà bên cạnh mượng ít bột ngọt chẳng hạn, để tụi nhỏ xem Tivi xong rồi là mình có món chay đãi tụi nó, vì thế tụi nó hay lui tới với đệ đều đều.

Ăn xong rồi thì nghe kể chuyện. Đủ mọi đề tài. Thường thì đệ hay kể cho chúng nó nghe về chuyện đạo để biết đâu trong bọn chún sau nầy sẽ có một vài đứa đi tu để hạt giống Phật không mất mát.

Còn câu chuyện vui vui đệ đã kể cho tụi nó nghe, hôm nay xin kể cho Sư huynh nghe tiếp vậy. Ở đây ông già bà cả sống cô dơn lắm, nên họ thường hay nuôi chó, dắt mèo đi khắp đường phố, không phải như ở quê mình đâu, để chó mèo chạy lung tung không có chủ.

Đã già 70 hay 80 tuổi gì đó nhưng còn tình tứ lắm, hai ông bà đi cận kề nhau ra trò tâm đắc lắm, lại còn dắt tay nhau nữa chứ, điệu nầy ở quê hương mình chắc họ cười lắm đó và bảo rằng "già mà còn bày đặt", còn ở đây, đó là chuyện thường Sư huynh ơi. Hai ông bà ấy vào tiệm bán thực phầm mua đồ, để con chó ngoài trời kêu la inh ỏi, rồi từ từ đi vào tiệm mua đồ. Trong ấy cũng đã có sẵn một vài người Việt Nam đang đứng đang săm sua chỗ mấy lon đồ hộp có vẽ hình con chó, con bò, con mèo và xem hộp nào thấy cũng rẻ, vì thế cho nên có kẻ đã mua về đánh chén, vì không rành ngôn ngữ, sau nầy mới biết ra là đồ ăn ấy để dành cho chó và mèo chứ đâu phải cho người.

Rồi hai người Việt Nam đi ra, sắp hàng để trả tiền, hai ông bà già kia đi trước. Bên nầy hấp tấp làm sao đó đẩy xe trúng hai ông bà già và cố ý xin lỗi bằng tiếng địa phương, nhưng khi nói ra thành tiếng cảm ơn, chứ không phải xin lỗi. Ông bà ngoái lại nhìn. Ông thì phớt tỉnh Ăng-lê, còn bà thì nhếch miệng cười, còn người bán hàng thì trừng mắt. Ý bà ta bảo rằng tại sao không xin lỗi, mà lại cảm ơn. Cuối cùng rồi cũng huề cả làng. Vì dân tị nạn mà.

Còn khí hậu ở đây thôi khỏi nói. Mỗi năm chỉ có mấy tháng có mặt trời, còn bao nhiêu là âm u, mù tịt chẳng biết khi nào là ngày, khi nào là đêm cả, nếu không có đồng hồ. Đi ra đường vào mùa đông thì phải trùm đầu, quấn cổ, rịt mình, mang giày, mang vớ, trông như một con nộm nhồi bông. Nếu huynh ở đây mà xem cách ăn mặc nầy chắc huynh sẽ la oai oải là phạm giới, phạm luật. May mà ở đây họ còn có bán đậu hủ, tương chao, nếu không, chắc đệ cũng phải ngã mặn mất, lúc ấy phải "ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?"

Chuyện thì còn nhiều lắm và dài lắm, viết hoài không hết, kể hoài không chán, không biết huynh muốn nghe chuyện gì? Thôi hẹn thư sau, đệ sẽ viết về những cái hay cái đẹp của xứ người để huynh đọc cho vui. Bây giờ xin cho đệ dừng bút và không quên cầu chúc huynh vui vẻ, hăng say và gặp nhiều thiện duyên trong cuộc sống hằng ngày".

Kính thư
Bần đệ


Khoảng 3 tuần sau thì ở Việt Nam Sư Tịnh Đạo đã nhận được thư, sau khi đọc xong Sư đi khoe khắp chùa, cùng xóm. Cuối cùng rồi ai cũng biết. Duy có một điều, có người con gái mang tên Duyên, nàng cũng cố ý lắng tai nghe thử Sư có đề cập gì đến mình chăng, cuối cùng rồi cũng chẳng thấy. Ngàn cũng không có vẻ buồn giận gì, nhưng ngụ ý của nàng muốn làm sao tìm được địa chỉ của Sư để viết thư tâm sự. Bây giờ không phải chuyện tình nữa, mà nàng sẽ kể cho Sư nghe về bao nhiêu chuyện đang xảy ra tại quê hương nầy, nhất là từ lúc không còn Sư ở đây nữa.

Sau khi xem thư của Sư Tịnh Thường xong, có người khen, kẻ chê, mỗi người mỗi ý. Có vậy mà cũng đòi ra ngoại quốc làm gì? tốn tiền của. Có tai như điếc, có mắt như đui, có miệng như câm… Nhưng có người cũng tự bênh vực lại cho lập luận đó. Thì đã có sao đâu, thời gian qua đi thì cái gì cũng sẽ trở về với nề nếp của nó. Ví dụ như khí hậu, phong tục, tập quán, ngôn ngữ v.v… rồi cũng quen dần đi thôi.

Trong thời gian ấy Sư Tịnh Thường tìm hiểu thêm về đời sống của người địa phương tại đây cũng như tìm hiểu về cách sinh hoạt của một số chùa chiền khác mà Sư có ý lâu nay là sẽ đến đó để ở chung, hoặc lo tự lập cho tông phái của mình. Sau một thời gian nghiên cứu, Sư thấy khó quá, tín đồ của Phật Giáo Du Tăng Khất Sĩ quá ít, nên Sư hội nhập về giáo phái Đại Thừa trong cách ăn mặc cho đễ bề hành đạo. Bây giờ Sư không còn ăn một ngày một bữa nữa, mà là 3. Sư không còn đắp y nữa mà là mặc áo nhựt bình, cố ý chinh phục đám tín đồ hỗn tạp nầy một cách có hệ thống. Nhưng cuối cùng rồi Sư cũng không thực hiện được. Vì lẽ Sư chỉ có thể thích hợp được một số ít nào đó thôi. Phần lớn họ là người đã có gốc gác và đa số là thành phần trí thức, là cựu sinh viên đã đi du học trước năm 1975. Đối với từng lớp nầy, dù Sư có cho họ ăn ngon, kể chuyện thật hay đi chẳng nữa, nhưng khi đi sâu vào vấn đề Sư không đả thông hết cho họ, bên ngoài thì họ cố gắng mô Phật cho đẹp lòng Sư; nhưng với tài đức của Sư chưa đủ để cho họ thán phục mà đứng hẳn về phía mình.

Sau một thời gian khổ công nhọc sức nhưng Sư đã quá mỏi mệt, tiếng tăm không thông, đó là sự khó khăn lúc giao tế. Ngôn ngữ không rành là điều khó khăn lúc giao tế. Ngôn ngữ không rành là điều khổ nạn vô cùng. Khí hậu rồi dần dà mình cũng có thể làm quen đi; nhưng ngôn ngữ chỉ nói tiếng bồi không thì ức quá.

Một hôm sau giờ học, Sư nhận được một lá thư từ Việt Nam gởi tới. Nhìn bì thư và giấy viết thư thấy xấu xa thậm tệ. Sư liếc mắt thấy mấy chữ bên góc trái lá thư đề người gởi: Trần Thị Diệu Duyên… Sóc Tăng… Sư đăm chiêu mang thư về phòng đọc.

Đọc xong thư Sư thở phào nhẹ nhõm, cái nhẹ nhõm ấy lâu nay Sư chưa bao giờ có được, vì ngôn ngữ và khí hậu là hai cái khó nó bó cái khôn của Sư. Bây giờ có thư của Duyên như là một cái phao cứu tử. Trong thư ấy Duyên đã nói gì, xem xong Sư xé bỏ, chỉ có một điều là thấy Sư vui hơn và đang ở trong trạng thái lo lắng xa xăm. Kẻ đoán già, người đoán non, cuối cùng rồi Sư cũng đã tụ tập tụi nhỏ thân thiện trong trại về phòng để dặn dò.

"Sư nói cho tụi con biết nghe! Rồi đây Sư sẽ rời trại nầy! đi về một phương trời vô định. Ở đó Sư sẽ có đầy đủ điều kiện để sinh hoạt hơn, ví dụ như môi trường sống, ngoại cảnh v.v… Ở đó Sư sẽ không lạc lõng nữa, vì Sư chỉ xử dụng toàn bằng tiếng Việt và cũng tại đó Sư sẽ thực hành hạnh khất sĩ như tại quê hương, vì nơi đó nắng ấm quanh năm, chứ không phải như cái tủ đông lạnh xứ nầy".

Tất cả đều "ồ" lên một tiếng và đứa hỏi nầy, đứa hỏi nọ, làm cho Sư trả lời cũng muốn mệt đi được.

- Sư đi đâu Sư? Cho con theo với được không Sư?

- Xứ đó là xứ nào Sư? Tiết lộ cho con biết với?

- Tại sao Sư đi, bỏ lại tụi con ở đây có ai săn sóc, Sư không thương tụi con hay sao Sư?

- Thôi ở đây với tụi con đi Sư, đi đâu cũng vậy, người tu hành cũng phải giúp đỡ chúng sanh thôi.

Hằng trăm câu hỏi dồn dập được đặt ra; nhưng Sư thì chưa trả lời câu nào cả, làm cho tụi nhỏ cũng cụt hứng không muốn hỏi tiếp nữa. Mấy năm ở đây, đúng ra nhờ bát cơm chay Sư nấu ngon và nhờ tài khéo léo kể chuyện của Sư cũng đã thu hút được một số tín đồ đấy chứ. Sư lặng câm nhìn tụi nhỏ cũng hài lòng; nhưng cảm thấy không có tương lai, rồi Sư đổi qua một đề tài khác.

- Tụi con tối nầy muốn ăn chè gì?

- Chè đậu xanh, Sư! Chè mà Sư cho là ngon nhất đấy.

- Không, con không thích chè đậu xanh, mà con thích đậu hủ bỏ đường và gừng vào cơ.

- Thôi thì Sư nấu cả hai loại. Đứa nào thích thứ nào thì dùng thứ đó.

- Con ăn cả hai thứ có được không Sư?

Thế là những câu hỏi được đặt ra, không có một câu trả lời nào được giải đáp, mà tụi nhỏ vì háu ăn nên quên hết mục đích của buổi ban đầu.

Gian phòng của Sư ở trong trại tạn càng ngày càng trống, vì Sư đã thu gọn vào các chiếc va-ly để ở đầu giường, chỉ còn hình ảnh Đức Di Đà, Đức Quan Âm, Thế Chí và chuông mõ là còn nguyên vẹn. Có lẽ Sư để lại những thứ nầy chăng? Sư chấp nhận hay chối từ những gì Sư đã làm xưa nay? Sư thuộc khuynh hướng nào? Đại Thừa? Tiểu Thừa hay Khất Sĩ?

Nhiều lúc tụi nhỏ cứ phân vân mãi, nhưng phân tích kỹ mới thấy rằng; những gì tốt đẹp Sư gom về phía Khất Sĩ; những gì thủ cựu Sư dồn qua phía Tiểu Thừa. Còn Đại Thừa thuộc phái quá cải cách, duy tâm. Có lẽ đó dúng là đòn tâm lý và đúng với mục đích của Sư muốn thi thố tài năng tại chốn nầy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/12/2014(Xem: 3613)
T huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.
01/12/2014(Xem: 13032)
Nguyên gốc tác phẩm này là của Genro, một Thiền sư thuộc tông Tào động Nhật Bản, viết và xuất bản năm 1783. Mỗi câu chuyện là một công án mà tác giả đã có lời bình và kệ đi kèm. Fugai, người thừa kế Genro, thêm nhận xét của sư, câu đối câu, vào sách của thầy. Tôi sẽ dịch các câu chyện hay tắc, gồm cả lời bình của Genro và nhận xét của Fugai trong hầu hết các câu chuyện để tham khảo. Có khi gặp bài kệ cũng dịch để khuyến khích học tập.
28/11/2014(Xem: 4222)
Tôi và cả vợ tôi nữa, hình như mấy ngày hôm nay, lòng lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, hạnh phúc vô cùng! Chuyện chẳng có gì to tát lắm đâu mà sao chúng tôi vui mừng đến vậy. Tối thứ bảy vừa qua, sau khi tắt đèn, mở cửa phòng đi tìm nước uống chuẩn bị đi ngủ, tôi phát hiện ngay trước cửa phòng một túi quà nhỏ, món quà nhỏ bé của các con tôi, với một tờ giấy võn vẹn sáu chữ "Happy 40th year from your children". Chỉ với sáu chữ võn vẹn đó...đã khiến vợ chồng tôi ngẩn ngơ, quên đi hai chiếc đồng hồ tuyệt đẹp trên tay vợ tôi! Vợ tôi thì xúc động lắm, còn tôi, miệng thì luôn hỏi sao tụi nó lại nhớ đến ngày cưới của mình, nhưng lòng lại mơ màng nghĩ về những ngày này của 40 năm trước...Tôi cưới vợ!
16/11/2014(Xem: 4986)
Sau khi kết hôn hai năm, chồng tôi bàn với tôi đón mẹ lên ở chung để chăm sóc bà những năm tuổi già.Chồng tôi mất cha từ ngày anh còn nhỏ, mẹ chồng tôi là chỗ dựa duy nhất, mẹ nuôi anh khôn lớn, cho anh học hết đại học. “Khổ đau cay đắng” bốn chữ ấy vận đúng vào số phận mẹ chồng tôi! Tôi nhanh chóng gật đầu, liền đi thu dọn căn phòng có ban công hướng Nam, phòng có thể đón nắng, trồng chút hoa cỏ gì đó.Chồng tôi đứng giữa căn phòng ngập tràn nắng, không nói câu nào, chỉ đột ngột bế bổng tôi lên quay khắp phòng, khi tôi giãy giụa cào cấu đòi xuống, anh nói: “Đi đón mẹ chúng ta thôi!”.
15/11/2014(Xem: 10202)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì ...
14/11/2014(Xem: 4720)
Tại một ngôi trường tiểu học trong một thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ hôm nay là ngày đầu tiên khai giảng cho năm học mới. Cô Thompson là giáo viên phụ trách dạy lớp Năm. Cô giáo đứng trước các học sinh trong lớp học của mình và tương tự như các giáo viên khác, cô cũng nhìn khắp lượt vào các em học sinh và nói là cô sẽ thương yêu tất cả các học trò của cô như nhau, không có sự phân biệt nào cả. Cô đã nói với các đứa trẻ này điều đó, một điều mà cô tự biết là không thật lòng và cô biết là mình sẽ không thực hiện được.
08/11/2014(Xem: 6064)
Người đàn bà ngồi tựa vào tường trên lối mòn của một con hẻm. Mệt mỏi và thiếp đi cạnh quang gánh của mình. Hai đầu gánh là đủ thứ quà vặt như bánh tráng, kẹo, đến chanh, ớt… rồi có cả đồ chơi trẻ con chằng cột. Chị như muốn kéo cả thế giới chung quanh đi theo mình trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn không có ngày tháng cuối.
07/11/2014(Xem: 7498)
Tại sao lại là những bài học bình dị? Vì những câu truyện ở đây sẽ chỉ ra cho các em thấy được những bài học đạo đức rất gần gũi trong cuộc sống...
07/11/2014(Xem: 31845)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
01/11/2014(Xem: 5395)
Trước 1975, tôi là một phi công Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi qua Mỹ từ ngày mất nước, khi tuổi đời vừa mới 25. Mang tiếng pilot bay bướm nhưng tôi không có lấy một mảnh tình, bởi vì tôi không có tài tán gái. Thời đó mặc dù phụ nữ Việt nam cao giá, mấy thằng bạn không quân lanh lẹ vẫn vớt được một cô vợ Việt. Tôi khù khờ, vài năm sau đành yên bề gia thất với một thiếu nữ Mỹ tuổi đôi mươi. Hồi mới cưới, cuối tuần tôi thường dẫn Carrol hội họp bạn bè, nhưng nàng cảm thấy lạc lõng giữa đám người Việt bất đồng ngôn ngữ và từ chối những buổi họp mặt. Xuất giá tòng thê, mất liên lạc với đám bạn cũ, tôi hoàn toàn hội nhập vào đời sống Mỹ. Khi đứa con gái lên 5, chẳng may Carrol bị bịnh thận. Căn bịnh quái ác kéo dài hành hạ nàng hơn 20 năm và nàng qua đời vào thời gian đứa cháu ngoại vừa tròn 3 tuổi. Gần 2 năm qua, nỗi buồn mất người vợ Mỹ tuy đã nguôi ngoai nhưng tôi vẫn giữ thói quen sống không bè bạn, vẫn âm thầm cô đơn chiếc bóng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]