Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Thiền Sư Thích Huệ Thắng

22/04/201319:05(Xem: 15679)
03. Thiền Sư Thích Huệ Thắng
245_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Thich Hue Thang

Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ
Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng bài pháp thoại (thứ 245) về “Thiền Sư Thích Huệ Thắng”,  ngài là vị thiền sư thứ ba của Việt Nam (vào thế kỷ thứ sáu), cách Đức Phật nhập niết bàn 800 năm và cách chúng ta 1500 năm.


Tiểu sử của ngài rất ngắn, Sư ông Thanh Từ theo Cao Tăng Truyện để biên soạn.

Thích Huệ Thắng là người Giao Chỉ, ở chùa núi Tiên Châu (Bắc Ninh), lánh ngụ rừng đầm, thong dong ngoại vật, tụng kinh Pháp Hoa, ngày đến một biến, mỗi năm càng sâu. Sư ăn mặc đơn sơ, tùy thân vui dùng, theo Thiền sư nước ngoài là Đạt-ma-đề-bà (Dharmadeva) học pháp quán hạnh. Mỗi lần Sư nhập định đến ngày mai mới xuất định.

 

Sư Phụ giải thích, Giao chỉ là bộ tộc đầu tiên của nước Văn Lang, hai ngón chân cái giao nhau, Sư Phụ có chỉ xem trong Gogle có hình. Ở Việt Nam hiện nay giống người Giao Chỉ cổ xưa còn rất ít.

Chùa Núi Tiên Châu  xưa kia là tọa lạc ở Bắc Ninh ngày nay.

Thiền sư Thích Huệ Thắng là một hành giả thọ trì Pháp Hoa Kinh, mỗi ngày một bộ, gồm 7 quyển và 28 phẩm.
Từ phẩm 1-14, thuộc tích môn, kể về sự tích của cuộc đời và hành trạng của Đức Phật.


Từ phẩm 15-28, thuộc về bản môn, giải về lý của kinh Pháp Hoa.

Kinh Pháp Hoa, gọi đầy đủ là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, lấy hoa sen để biểu trưng cho tri kiến Phật.

Trong bùn gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn

Chư Tổ Đức cũng dạy:
Khi mê bùn vẫn là bùn

Ngộ rồi mới biết trong bùn có sen.


Búp sen còn nằm trong bùn vẫn đầy đủ 4 yếu tố: cánh sen, nhuỵ sen, gương sen và hạt sen. Đó là ý nghĩa biểu trưng cho nhân quả đồng thời. Sen trong bùn giống như chúng sanh đang ở trong tam giới luân hồi đau khổ, nhưng kỳ diệu thay trong mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, Tri kiến Phật, nếu chúng sanh đó đủ duyên tu tập đạt đến giác ngộ, giải thoát thành Phật như đóa sen nở rộ 100%.


Thiền Sư Thích Huệ Thắng có duyên với kinh Pháp Hoa, với thời gian, ngài thâu nhập sâu đậm nghĩa của kinh và đạt ngộ Phật tri kiến.

Phật tử Việt Nam thời hiện tại thừa hưởng lợi ích từ 2 bản dịch đầu tiên Kinh Pháp Hoa của lão cư sĩ Đoàn Trung Còn dịch, xuất bản vào năm 1936 và bản dịch thứ 2 của Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch xuất bản 1948.


Đức Trưởng Lão Hoà Thượng Trí Thủ cũng là một hành giả Kinh Pháp Hoa, Ngài có để lại đời 4 thơ tán thán kinh Pháp Hoa:
    Một lòng kính lạy Phật đà
    Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai
   Con nguyện mặc áo Như Lai
   Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời.


Nhà Như Lai chính là an trú trong tâm từ bi, áo Như Lai là nhẫn nhục Ba la mật, toà Như Lai là pháp tánh không, hành giả Pháp Hoa phải áp dụng pháp tu để hành trì mỗi ngày để giác ngộ và giải thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.

Công hạnh của thiền sư Thích Huệ Thắng:
-Ngài thọ trì kinh Pháp Hoa
-Sư ăn mặc đơn sơ, tri túc thiểu dục, an lạc vô vi tự tại.
-Sư học thiền chỉ và thiền quán với Thiền Sư Ấn Độ Đạt Ma Đề Bà (Dharmadeva), mỗi lần nhập định một ngày một đêm mới xuất định.

Thiền Chỉ (samatha): có 3, đó là: Hệ duyên thủ cảnh chỉ, chế chơn chỉ, thể chơn chỉ, tức dừng tâm, cột tâm mình lại một chỗ, không cho tán loạn, vọng tưởng nữa. Dùng 5 thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm để đối trị, tận trừ 5 triền cái (chướng ngại):tham dục, sân nhuế, hôn trầm thùy miên, trạo hối và nghi. Từng bước, hành giả tu thiền chỉ sẽ chứng đạt tứ thiền và ngũ thần thông.

1/Sơ Thiền: ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ." . Khi mạng chung, thác sinh về cõi sắc giới: phạm chúng, phạm phụ, đại phạm)

2/Nhị thiền: diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, với trạng thái hỷ lạc do định sanh. Khi mạng chung, thác sinh về cõi sắc giới bậc hạ: thiểu quang, vô lượng quang, quang âm.

3/Tam thiền: ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ, “Xả niệm lạc trú”. Khi mạng chung, thác sinh về cõi sắc giới bậc trung: Thiểu tịnh, vô lượng tịnh, biến tịnh.

4/Tứ thiền: xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh." Khi mạng chung, thác sinh về cõi trời sắc giới cao nhất: Vô vân, phước sanh, quảng quả, vô tưởng, vô phiền, vô nhiệt, sắc cứu cánh, Đại Tự Tại.

 

Và hành giả tu thiền chỉ chứng được ngũ thần thông:
1/Thiên nhãn thông
2/Thiên nhĩ thông
3/Tha tâm thông
4/Thần túc thông
5/Túc mạng thông

Sư phụ có nhắc dù đạt tứ thiền và ngũ thần thông  nhưng vẫn còn ở trong vòng sanh tử luân hồi, muốn giải thoát phải tu Thiền Quán.

 

THIỀN QUÁN (Vipassana): có 2: đối trị quán, chánh quán, dùng trí tuệ để quán chiếu. Quán thân, thọ, tâm, pháp; quán 3 pháp ấn: vô thường, khổ, vô ngã.

Hành giả tu thiền quán sẽ đắc 4 quả và ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.

1/Tu Đà Hoàn quả: hành giả diệt tận: Thân kiến, giới cấm thủ, hoài nghi

2/Tư Đà Đàm quả: diệt trừ Dục ái & làm mỏng sân nhuế

3/A Na Hàm quả: đoạn tận vĩnh viễn 5 hạ phần kiết sử (Thân kiến, giới cấm thủ, hoài nghi, tham dục, sân hận).

4/A La Hán quả: hành giả đoạn tận sạch sẽ 5 thượng phần kiết sử: sắc ái, vô sắc ái , trạo cử, ngã mạn và vô minh. Khi vô minh hết thì minh xuất hiện, hành giả chứng đệ lục thần thông đó là Lậu tận thông, phiền não chướng, sở tri chướng tận trừ, chứng quả vô sanh bất tử, giải thoát, không còn luân hồi tái sanh nữa.


Kính mời xem tiếp


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4630)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43745)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4357)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4289)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4203)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6325)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4599)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4012)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24868)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23964)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]