Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

VII. Bảy phương pháp đoạn trừ phiền não

10/04/201111:20(Xem: 8806)
VII. Bảy phương pháp đoạn trừ phiền não

TÌM HIỂU PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Thích Hạnh Bình

Phần 1

QUAN ÐIỂM TU TẬP TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

VII. BẢY PHƯƠNG PHÁP ÐOẠN TRỪ PHIỀN NÃO

Mặc dù nguồn gốc khổ đau của con người là do vô tri (vô minh), nhưng vô tri được thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau. Sự khác nhau của mỗi hình thức nói lên tính đặc thù của nó, do vậy, muốn giải quyết một vấn đề cần phải căn cứ tính đặc thù này để đưa ra biện pháp giải quyết. Từ ý nghĩa này, đức Phật căn cứ điểm xuất phát của từng loại phiền não, Ngài đưa ra phương pháp giải quyết một cách cụ thể cho từng loại. Theo đức Phật, cuộc sống của con người có bảy điểm xuất phát phiền não khác nhau, do vậy Ngài đưa ra phương pháp giải quyết.

a.Phiền não do tri kiến đoạn trừ:

Theo sự phân tích của đức Phật, loại phiền não thứ nhất là do thiếu tri kiến, tức thiếu sự hiểu biết mà gây nên phiền não. Như trong kinh “Tất Cả Lậu Hoặc” [35]đức Phật mô tả như sau:

“Này các Tỷ-kheo ! Ở đây, có những kẻ vô văn phàm phu [36] ít nghe, không thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh... không tuệ tri (hiểu rõ) các pháp cần phải tác ý và các pháp không cần phải tác ý.... Này các Tỷ-kheo ! Thế nào là những pháp không cần phải tác ý mà vị ấy tác ý ? Là các pháp mà vị ấy tác ý, các dục lậu... hữu lậu... và vô minh lậu chưa sanh khiến sanh khởi, đã sanh càng tăng trưởng. Ðây là những pháp không cần phải tác ý mà vị ấy tác ý. Này các Tỷ-kheo ! Thế nào là các pháp cần phải tác ý mà vị ấy tác ý? Là tác ý những pháp những dục lậu... hữu lậu... và vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi, đã sanh được trừ diệt”.

Ý nghĩa đoạn kinh vừa dẫn trên, trọng tâm đức Phật thảo luận vấn đề là: Lấy gì làm cơ sở để tác ý và đối tượng tác ý là gì? Vấn đề thứ nhất, được đức Phật chỉ dạy, là lấy sự hiểu biết tức tri kiến để làm cơ sở cho việc tác ý. Tri kiến ở đây được ám chỉ cho lời giảng dạy của đức Phật hay lời nói của những người có trí, là những chân lý của cuộc sống mà đức Phật cũng như các bậc trí đã kinh nghiệm, đúc kết từ cuộc sống của con người. Vấn đề thứ hai là đối tượng tác ý. Ðối tượng mà đức Phật khuyên chúng ta cần phải tác ý là những gì mang lại thiết thực lợi lạc và bình an cho sự sống chúng ta, ngược lại những gì mang lại cho con người những khổ đau và phiền muộn, đó là những pháp thuộc về dục lậu [37], hữu lậu [38] và vô minh lậu [39]. Nói một cách khác, những pháp không thực tế, xa vời, viển vông, không mang lại hạnh phúc, những pháp này, đức Phật khuyên chúng ta nên từ bỏ, không nên tác ý, vì khi tác ý về chúng chỉ tăng thêm sự khổ đau cho con người mà thôi. Ðể mô tả về ý này, đức Phật đưa một vài điển hình về những vấn đề không cần phải tác ý như sau: “Ta có mặt hay không có mặt trong thời quá khứ ? Có mặt như thế nào? Ta có mặt hay không có mặt trong thời vị lai? Và có mặt như thế nào?...”. Ðây là những vấn đề thuộc siêu hình, theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, đức Phật từ chối không trả lời những vấn đề này, vì chúng không có liên hệ đến mục đích của đời sống phạm hạnh, không đưa đến chấm dứt khổ đau, không có ích lợi gì cho sự giải thoát giác ngộ. Như trong kinh ‘Tiễn Dụ’[40], đức Phật dạy:

“Cũng vậy, thế giới thường hay vô thường; thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng là thân hay sinh mạng khác thân; Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt... Ta không xác quyết nói những điều này. Vì sao? Vì những điều này không tương ưng với cứu cánh, không tương ưng với pháp, không phải căn bản phạm hạnh, không khai mở trí, không đưa đến giác ngộ, không đưa đến Niết-bàn”[41]

Theo đức Phật, vấn đề ta có mặt hay không có mặt trong quá khứ, sau khi chấm dứt cuộc sống này, ta có tồn tại hay không tồn tại, và tồn tại như thế nào trong tương lai... thì cuộc sống này của con người vẫn tồn tại những khổ đau. Việc cần phải làm trước tiên của chúng ta là giải quyết những vấn đề khổ đau trong cuộc sống hiện tại. Do vậy, những nghi vấn thuộc về siêu hình là không thực tế, không phải là đối tượng tác ý cho một người phàm phu đang hiện hữu những khổ đau. Ðây là ý nghĩa của câu: “Không tác ý những vấn đề không cần phải tác ý” đã được đức Phật giảng dạy.

Tóm lại, chúng ta thấy, thái độ quyết định “Không tác ý những vấn đề không cần phảitác ý” hay “Tác ý những vấn đề cần phải tác ý” thuộc lãnh vực “tri kiến” không phải “niềm tin”. Do vậy, những loại khổ đau thuộc về thiếu tri kiến, muốn diệt trừ chúng phải do tri kiến đoạn trừ. Ví dụ, một thí sinh bước vào phòng thi, hay người nhân viên làm công tác chuyên môn; thí sinh phải thuộc lòng bài vở và hiểu biết những gì mà mình phải thi; người nhân viên phải có kiến thức chuyên môn trong lãnh vực làm việc của mình. Thuộc lòng bài vở của thí sinh hay có kiến thức chuyên môn của người nhân viên thuộc về “tri kiến”, là điều kiện không làm cho họ sợ hãi và lo âu, nếu không có điều kiện này là nguyên nhân của khổ đau. Ðó là ý nghĩa của câu: Có những loại phiền não phải do tri kiến được đoạn trừ.

b. Phiền não do phòng hộ đoạn trừ:

Loại phiền não thứ 2 là thiếu sự phòng hộ, tức không cẩn thận, thiếu thái độ giữ gìn mà phát sinh phiền não. Cũng trong kinh “Tất Cả Lậu Hoặc”, đức Phật dạy:

Này các Tỷ-kheo! Nếu Tỷ-kheo sống không phòng hộ với sự phòng hộ của mắt... tai... mũi... lưỡi... thân và ý, các lậu hoặc tàn hại nhiệt não có thể khởi lên. Nếu Tỷ-kheo sống phòng hộ với sự phòng hộ của mắt... tai... mũi... lưỡi... thân và ý, các lậu hoặc tàn hại nhiệt não không thể khởi lên... Này các Tỷ-kheo!Các lậu hoặc này phải do phòng hộ đoạn trừ”.

Nội dung của đoạn kinh văn vừa dẫn trên, đức Phật khuyên các vị Tỷ-kheo cần phải có thái độ cẩn thận giữ gìn đối với 6 nội căn: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý. Tại sao đức Phật khuyên chúng ta nên giữ gìn chúng, lời khuyên ấy có dư thừa không vì không ai lại không giữ gìn 6 căn của mình? Ở đây, khái niệm giữ gìn 6 căn mà đức Phật đề cập, mang tính đặc thù, không mang ý nghĩa bình thường như chúng ta hiểu. Giữ gìn con mắt không mang ý nghĩa đừng để bụi bặm rơi vào mắt, cũng không phải là cấm các Tỷ-kheo không nên nhìn sắc, tai không được nghe tiếng, mũi không được ngửi mùi hương, lưỡi không được nếm vị ngon ngọt, thân không được xúc chạm, ý không được nhận thức các pháp. Ý nghĩa từ “giữ gìn” ở đây là cần phải có thái độ cẩn trọng khi 6 nội căn tiếp xúc với 6 ngoại trần là: 1- sắc, 2- thinh, 3- hương, 4- vị, 5- xúc, 6- pháp, đừng để cho 6 ngoại trần lôi kéo, sai sử, vì 6 căn là cửa ngõ cho tất cả phiền não xuất hiện. Ví như, khi con mắt thấy sắc đẹp, tâm liền sanh tham ái đối với sắc ấy, như vậy là bị sắc ấy trói buộc và lôi kéo, người ấy sẽ không làm chủ được mình, tâm dễ sanh tán loạn, thiền định không từ đâu mà có, trí tuệ không do đâu mà sanh, là pháp chướng ngại cho sự giải thoát. Do vậy, đức Phật khuyên các vị Tỷ-kheo cần phải giữ gìn sáu nội căn, là sự giữ gìn đừng để cho tâm tham ái khởi lên. Nói đúng hơn, khi Tỷ-kheo tiếp xúc những gì đưa đến sự giải thoát thì nên tiếp xúc, cái gì làm chướng ngại Niết-bàn giải thoát thì không nên tiếp xúc. Cũng giống như vậy, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm vị ngon ngọt, thân cảm xúc cứng mềm, ý nhận thức các pháp cũng mang ý nghĩa như thế. Ðây là lời giải thích tổng quát của đức Phật, vì ý nghĩa của 6 nội căn và 6 ngoại trần, còn gọi là 12 xứ, bao gồm tất cả pháp ở thế gian. Trong thế gian không có một pháp nào ngoài 12 phạm trù này, như vậy đức Phật nói 12 xứ, ám chỉ cho tất cả pháp.

Xuất phát từ ý nghĩa này, chúng ta có thể phát triển, cụ thể hóa vấn đề để dễ hiểu hơn. Khái niệm “giữ gìn” ở đây, có thể được hiểu, nó bao gồm cả những gì mà cuộc sống của con người cần sử dụng đến, như cái nhà là nơi cần thiết cho con người ở, chúng ta cần phải giữ gìn chăm sóc nó. Không thể nói: cái nhà là vật chất, cái ấy bị vô thường chi phối, do vậy ai muốn làm gì thì làm, nó hư dột hay người khác đập phá như thế nào cũng mặc kệ. Hay nói: chúng ta có bịnh tật không chịu chữa trị, vì thân thể là vô thường, hiểu như vậy là hiểu không đúng với tinh thần giảng dạy của đức Phật. Thật ra, đức Phật nói vô thường, mục đích của lời giảng dạy này chỉ ra bản chất của sự vật, sự biến đổi của sự vật là tự nhiên, con người không nên vì sự vật biến đổi mà sanh buồn khổ, cái gì thuộc qui luật tự nhiên mà chấp trước là đau khổ. Ví như sanh lão bịnh tử là quy luật tự nhiên của con người, khi con người sanh ra, lớn lên, già đi, bịnh hoạn và chết là tự nhiên, không nên vì sự thay đổi này mà sanh khổ. Ðiều này không đồng nghĩa với thái độ mặc kệ, thân thể bịnh hoạn không uống thuốc, nhà hư không sửa, phòng dơ không quét dọn. Ðây là ý nghĩa chữ “vô thường” mà đức Phật muốn nói đến.

Tóm lại, ý nghĩa chữ phòng hộ được đức Phật đề cập trong kinh này là sự phòng hộ sáu căn, sự phòng hộ của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý căn, vì sáu căn này là 6 cửa ngõ để cho tất cả phiền não đến và đi. Nói một cách khác, những nguyên nhân gì làm cho thân tâm của chúng ta đau khổ, tất cả chúng phải được phòng hộ một cách cẩn thận.

c.Phiền não do thọ dụng đoạn trừ:

Loại phiền não thứ ba là thiếu sự “thọ dụng”, tức là sự túng thiếu về vật chất. Theo đức Phật, ngoài nỗi khổ về mặt tâm lý, con người còn có những nỗi khổ về mặt vật chất, như túng thiếu về cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, vật liệu trị bịnh ... Muốn diệt trừ những nỗi khổ này, cần phải bằng vật chất để diệt trừ, tất nhiên là với tinh thần “thiểu dục tri túc”. Như trong kinh “Tất Cả Lậu Hoặc”, đức Phật mô tả như sau:

“Này các Tỷ-kheo! Ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát, thọ dụng y phục, chỉ để ngăn ngừa lạnh nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi muỗi, các loài bò sát, che đậy sự trần truồng...; thọ dụng các vật thực không phải để vui đùa hay đam mê... mà chỉ để bảo dưỡng thân thể, tránh bịnh tật, giúp đỡ cho đời sống phạm hạnh...; thọ dụng sàng tọa (là những vật dụng để ngủ nghỉ)... để giúp cho đời sống độc cư...; thọ dụng dược phẩm trị bịnh để ngăn ngừa bịnh hoạn ... Này các Tỷ-kheo! Nếu vị ấy không thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại, nhiệt não có thể phát sanh ... Này các Tỷ-kheo, các lậu hoặc này phải do thọ dụng đoạn trừ.”

Qua nội dung đức Phật vừa trình bày trên, 4 nhu cầu sống tối thiểu cho một vị Tỷ-kheo sống trong thời đại của đức Phật là: 1. Y phục, 2.Vật thực, 3. Sàng tọa là những vật dụng ngủ nghỉ, 4. Dược liệu (thuốc men để chữa bịnh tật). Ðây là 4 loại cần dùng cho một vị Tỷ-kheo sống đời sống phạm hạnh, vô gia cư trong rừng núi, là những nhu cầu sống tối thiểu, không thể thiếu hơn nữa cho một vị Tỷ-kheo. Nếu một vị Tỷ-kheo sống trong rừng núi mà thiếu thốn những nhu cầunày, hẳn nhiên xuất hiện những phiền muộn âu lo, ảnh hưởng không tốt, có thể dẫn đến sự chết cho Tỷ-kheo sống đời sống Phạm hạnh. Do vậy, đức Phật nói : “Nếu vị ấy không thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại, nhiệt não có thể phát sinh”. Tất nhiên, với tinh thần “thiểu dục tri túc” là tinh thần mong cầu không thái quá, biết đủ vừa phải, đủ để nuôi thân, mục đích là để thực hành Phạm hạnh. Tinh thần thiểu dục tri túc của đức Phật không phải căn cứ vào hình thức vật chất bên ngoài mà căn cứ vào sự suy nghĩ trong tâm của con người, dựa vào mục đích sống và hoàn cảnh sống của vị ấy. Ví dụ, mức độ thiểu dục tri túc của một vị vua khác với mức độ thiểu dục tri túc của một người dân nghèo trong xã hội, có nghĩa là không thể căn cứ vào hình thức vật chất bên ngoài bắt nhà vua cùng với người dân nghèo giống nhau về hình thức. Cũng vậy, khi một xã hội biến đổi, thời gian và không gian khác nhau, mức độ nhu cầu của Tăng già cũng khác nhau, do vậy chúng ta không nên lấy 4 điều kiện này làm tiêu chuẩn, áp dụng chung cho mọi thời đại, cho mọi đoàn thể Tăng già không cùng chung một xã hội. Chúng ta nên hiểu tinh thần và mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để cho vị Tỷ-kheo có thể thành đạt giải thoát giác ngộ ngay trong cuộc sống này. Với mục tiêu này, bất cứ cái gì làm chướng ngại con đường giải thoát, đức Phật đều khuyên vị Tỷ-kheo nên tránh xa chúng. Do vậy, chúng ta nên học hỏi tinh thần giảng dạy của đức Phật hơn là học tập với thái độ rập khuôn, mang tính hình thức. Có thể nói những qui định cụ thể chỉ có giá trị đối với những người không hiểu rõ tinh thần giáo dục của đức Phật, nó có thể sẽ bị phá vỡ về mặt hình thức đối với những người đã hiểu rõ tinh thần giáo dục của ngài, khi hình thức đó không còn phù hợp với thực tế. 4 nhu cầu sống này là những nhu cầu sống cho một vị Tỷ-kheo, sống vô gia cư trong rừng núi, ở vào thời đại đức Phật. Mục đích và đời sống của Tăng già trong thời đức Phật và mục đích và đời sống Tăng già của xã hội ngày nay cùng chung mục đích là đều mong cầu giải thoát giác ngộ, nhưng khác nhau về hình thức sinh hoạt, do vì điều kiện sống của từng thời đại khác nhau, nhu cầu xã hội cũng khác nhau. Do vậy, chúng ta nên tuân thủ tinh thần giáo dục của đức Phật, không nên gìn giữ hình thức.

Qua nguồn tư liệu của kinh A hàm hay thánh điển Nikàya, chúng ta thấy, cả hai nguồn tư liệu này, đức Phật đều khuyên các vị Tỷ-kheo sống trong rừng núi, nơi thanh vắng, độc cư thiền định là bổn phận và trách nhiệm của vị Tỷ-kheo, đức Phật rất ít khi bảo các Tỷ-kheo vào thônxóm, thành thị để hoằng dương Phật pháp, tụng kinh cầu nguyện làm đám sám cho những người tại gia yêu cầu. Chúng ta có thể nói, sự sinh hoạt của Tăng già ở thời đại đức Phật cho đến sau khi ngài nhập diệt vào khoảng 100 năm [42] là một Tăng đoàn tu tập phạm hạnh, không phải là một sinh hoạt như một Tôn giáo. Nhưng, sinh hoạt của tăng đoàn từ vua A Dục (Asoka) trở về sau, hình thức sinh hoạt như là một sinh hoạt của một tôn giáo. Từ thời đại này trở về sau, Phật giáo khá chú trọng công tác hoằng dương Phật pháp, làm lợi lạc chúng sinh. Ðây là điểm đặc thù của hai giai đoạn Phật giáo của hai thời đại. Do vậy, nhu cầu sinh hoạt của Tăng già cũng khác nhau. Ðây là điểm chúng ta cần lưu ý.

Tóm lại, bốn nhu cầu sống cho vị Tỷ-kheo là: 1. Y phục, 2.Vật thực, 3. Sàng tọa là những vật dụng ngủ nghỉ, 4. Dược liệu (thuốc men để chữa bịnh tật) là những điều kiện sống không thể thiếu cho vị Tỷ-kheo sống trong rừng núi. Nếu thiếu một trong 4 nhu cầunày, phiền não sẽ xuất hiện. Qua lời dạy của đức Phật, chúng ta thấy, cách giáo dục của đức Phật rất thực tế và khoa học, không phủ nhận nhu cầu sống thực tế của con người như là cơm ăn, áo mặc, nhà ở... là những nhu cầu sống cần thiết của con người, cho dù là người xuất gia hay người tại gia túng thiếu vật chất vẫn sanh phiền não; những loại phiền não này, muốn đoạn trừ chúng phải bằng vật chất, không thuộc về tinh thần. Ðây là tư tưởng đặc biệt trong kinh tạng A hàm và Nikàya, biểu trưng cho tư tưởng đức Phật trong Phật giáo Nguyên thủy.

d.Phiền não do kham nhẫn đoạn trừ:

Theo sự phân tích của đức Phật, loại phiền não thứ 4 là thiếu sự kham nhẫn mà phát sinh phiền não. Trong kinh “Tất Cả Lậu Hoặc”[43] ,đức Phật diễn tả về những loại phiền não này như sau:

Này các Tỷ-kheo ! Có Tỷ-kheo như lý giác sát, kham nhẫn lạnh nóng, đói khát, sự xúc chạm của ruồi muỗi, sức nóng của mặt trời... kham nhẫn với lời mạ lỵ, phỉ báng... Này các Tỷ-kheo ! Nếu vị ấy không kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên...Này các Tỷ-kheo ! Các lậu hoặc này phải do kham nhẫn đoạn trừ”.

Kham nhẫn là sự chịu đựng hay lòng nhẫn nại. Ở đây, đức Phật đề cập đến sự kham nhẫn là kham nhẫn sự lạnh nóng, đói khát, ruồi muỗi, chửi mắng nhục mạ của kẻ khác... . Có thể phân chúng thành hai loại kham nhẫn: Tự nhiên và sự quan hệ xã hội. Những loại kham nhẫn xuất phát từ đói khát, thời tiết nóng lạnh, mưa bão, ruồi muỗi... thuộc về tự nhiên, không ai có thể tránh khỏi, cho dù là người xuất gia hay tại gia, là quan hay dân, mọi người cùng chung sống trong một không gian, trời nóng thì tất cả mọi người cùng nóng, trời lạnh thì tất cả mọi người cùng lạnh, không loại trừ bất cứ một ai, nhất là đời sống của những vị Tỷ-kheo, sống đời sống vô gia cư, trong rừng núi, thật khó tránh khỏi khí hậu khắc nghiệt của thời tiết Ấn Ðộ. Trước hoàn cảnh như vậy, chỉ có lòng kham nhẫn mới có thể làm giảm bớt sự đau khổ về mặt tâm lý của con người; thứ hai là sự kham nhẫn thuộc về mối quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội. Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy, mối quan hệ con người với con người, giữa người với xã hội rất phức tạp, thật khó tránh sự phật lòng nhau; cùng một vấn đề, nhưng với người này là tốt, người kia là xấu, thậm chí vợ chồng, mẹ con, anh em... là những người ruột thịt, nhưng cũng rất khó tránh sự bất hoà, huống gì tập thể người trong xã hội, nhất là một xã hội có giai cấp, không bình đẳng như xã hội Ấn Ðộ, giai cấp của người chủ, của người giàu mắng chửi nhục mạ đối với giai cấp nô lệ, đối với họ là chuyện bình thường. Trong trường hợp này, chỉ có thái độ kham nhẫn mới có thể làm giảm bớt sự buồn phiền về mặt tâm lý mà thôi. Ðây là ý nghĩa lời khuyên về sự kham nhẫn của đức Phật.

Tóm lại, những hiện tượng khắc nghiệt của thiên nhiên không thể khắc chế được, hay sự bất bình giữa con người với con người, con người với xã hội là điều không thể tránh khỏi, cần phải kham nhẫn mới có thể giảm bớt những khổ đau về mặt tâm lý trước cuộc sống.

e.Phiền não do tránh né đoạn trừ:

Loại phiền não thứ năm xuất phát từ việc thiếu thái độ cẩn thận của việc tránh né, bởi muốn diệt trừ những loại phiền não này phải dùng phương pháp tránh né để đoạn trừ. Trình bày ý nghĩa này, cũng trong kinh này, đức Phật dạy:

“ Thế nào là các lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo! Ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát, tránh né voi dữ, ngựa dữ, rắn, gai góc, hố sâu, vực núi, ao nước... những trú xứ không nên lai vãng, những bạn bè độc ác... Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không tránh né, các lậu hoặc tàn hại nhiệt não có thể khởi lên...”[44]

Nội dung và ý nghĩa đoạn kinh vừa nêu trên, đức Phật khuyên các vị Tỷ-kheo, cần phải tránh né đối với những sự nguy hiểm có thể xảy ra cho các vị Tỷ-kheo và ngay cả cho mọi người. Những loại nguy hiểm này không thể dùng phương pháp khác để đoạn trừ, như tụng kinh, niệm Phật hay lòng kham nhẫn bao dung mà cần phải dùng phương pháp tránh né để đoạn trừ. Ví dụ, khi ta gặp một người điên có tính hung bạo, không thể dùng lý lẽ phân tích đúng sai, cũng không thể lấy lý thuyết nhân quả để giáo hóa cho họ, trong trường hợp này biện pháp tối ưu là sự tránh né; khi ta gặp con chó dữ, một vùng chiến tranh, thái độ khôn ngoan nhất, phương pháp hữu hiệu nhất là chúng ta nên tránh xa những nơi nguy hiểm ấy, không thể dùng lý luận hay bất cứ một phương pháp nào khác để tránh xa sự nguy hiểm này.

Qua lời dạy này, chúng ta thấy, lời dạy của đức Phật rất thực tế và khoa học, không hềmang tính thần bí hay cao siêu mà con người không thể hiểu được, không thực hiện được. Phương pháp giải quyết của đức Phật là căn cứ nguyên nhân của sự phát sinh phiền não mà đưa ra một phương pháp cụ thể để giải quyết. Ðó là tinh thần giáo dục và phương pháp giáo dục của đức Phật trong kinh điển Nguyên thủy.

F.Phiền não do phiền não đoạn trừ:

Loại phiền não thứ 6 là do không trừ diệt. Ý nghĩa này được đức Phật trình bày trong kinh Tất Cả Lậu Hoặc[45] như sau:

“Thế nào là các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo! Ở đây Tỷ-kheo như lý giác sát không chấp nhận dục niệm... sân hận... hại niệm... các ác bất thiện pháp khởi lên, cần từ bỏ, diệt tận chúng. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không trừ diệt như vậy, các lậu hoặc tàn hại nhiệt não có thể khởi lên...”

Ở đây, ý nghĩa của “trừ diệt”, là đức Phật khuyên các Tỷ-kheo cần phải diệt tận gốc rễ của lòng tham lam, sân hận, si mê và tất cả các pháp ác bất thiện, vì chúng là nguyên nhân khởi sinh khổ đau cho đời sống con người. Những loại phiền não này thuộc về tâm lý không phải vật lý, muốn diệt trừ chúng phải diệt trừ từ tâm lý, bằng cách thắp sáng ngọn đèn trí tuệ. Ðó là phương pháp diệt trừ những nguyên nhân sinh ra phiền não, và khi nào chúng được diệt trừ, con người mới chấm dứt loại khổ đau này.

g.Phiền não do tu tập đoạn trừ:

Loại phiền não thứ bảy là những loại phiền não do không tu tập mà phát sinh. Như trong kinh “Tất Cả Lậu Hoặc”[46], đức Phật trình bày:

“ Này các Tỷ-kheo! Thế nào là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo! Ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát tu tập niệm giác chi... trạch pháp giác chi... tinh tấn giác chi... hỷ giác chi... khinh an giác chi... định giácchi... xả giác chi, y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này các Tỷ-kheo! nếu vị ấy không tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại nhiệt não có thể khởi lên”.

Ở đây, đức Phật khuyên các vị Tỷ-kheo nên tu tập bảy giác chi, đó là: 1- Niệm giác chi, 2- Trạch pháp giác chi, 3- Tinh tấn giác chi, 4- Hỷ giác chi, 5- Khinh an giác chi, 6- Ðịnh giác chi và 7- Xảgiác chi. Nhờ tu tập bảy giác chi này mà Tỷ-kheo sanh tâm yếm ly đối với sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp), vì vị ấy thấy rõ thực tướng của sáu trần là duyên sinh, là vô thường, cho nên không đắm trước vào sáu pháp ấy, nhờ vào thái độ yếm ly của tâm mà vị ấy không sanh khởi lòng tham lam và từ bỏ chúng.

1- Niệm giác chi: Là luôn luôn tỉnh thức nghĩ nhớ đến đối tượng Phật pháp.

2- Trạch pháp giác chi:Là sự sáng suốt trong việc lựa chọn. Thái độ lựa chọn này có hai ý nghĩa: thứ nhất là lựa chọn pháp môn tu tập, thích hợp với căn cơ trình độ của mình; thứ hai là trong thời đức Phật có nhiều hệ thống triết học, có nhiều tôn giáo chủ trương tu tập khác nhau, mỗi tôn giáo đều cho rằng giáo pháp của mình là đúng, còn của người khác là sai. Trong trường hợp này, một người muốn thành đạt mục đích chân thật cứu cánh giác ngộ, vị ấy phải có tinh thần minh mẫn, trí óc sáng suốt, phân biệt giữa chính và tà, sau đó lựa chọn pháp tu thích hợp cho mình, và có khả năng hướng đến mục đích giải thoát Niết bàn, đó là lý do tại sao đức Phật khuyên một người tu Phật phải có thái độ lựa chọn.

3- Tinh tấn giác chi: Sau khi lựa chọn pháp môn tu tập xong, nỗ lực hành trì pháp môn ấy.

4- Hỷ giác chi:Là thái độ vui vẻ hoan hỷ trong việc thực hành giáo pháp của đức Phật, trạng thái hỷ này chỉ xuất hiện sau trạch pháp và tinh tấn giác chi.

5- Khinh an giác chi:Là trạng thái nhẹ nhàng của thân thể, thoải mái về tinh thần.

6- Ðịnh giác chi:Là sự tỉnh thức trong việc tu tập thiền định.

7- Xả giác chi: Là sự xả bỏ chấp trước, nó xuất phát từ vô minh, xả bỏ những thành kiến hay định kiến. Trạng thái xả này được xuất phát từ trí tuệ, được chỉ đạo bởi trí tuệ, không phải xuất phát từ vô tri, vì Tỷ-kheo sau khi tu tập thiền định, trí tuệ nhờ đó được sinh khởi, có lẽ đó là lý do tại sao trong tiến trình tu tập bảy giác chi, Xả giác chi được xếp cuối cùng. Như vậy chữ “Xả” ở đây, nó luôn luôn được gắn liền với tiến trình này, có nghĩa là phải hoàn thành 6 chi trước, sau đó Xả giác chi mới xuất hiện, không thể có trường hợp không hoặc chưa tu tập sáu giác chi đầu mà chỉ tu tập Xả giác chi. Nếu điên đảo tu tập như vậy, ý nghĩa của thái độ xả này, đồng nghĩa với thái độ xả của kẻ vô trí, vì nó không lấy trí tuệ làm nền tảng, chỉ đạo cho từ bi hỷ xả.

Như vậy, bảy giác chi này là một tiến trình tu tập của một người từ phàm phu đến bậc Thánh, vị ấy cần phải trải qua và thực hành từng giai đoạn, để đoạn trừ khổ đau, thành đạt mục tiêu giác ngộ giải thoát. Ðây là ý nghĩa của sự tu tập trong Phật giáo Nguyên thủy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567