- 01. Phẩm Tự
- 02. Phẩm Thuần Đà
- 03. Phẩm Ai Thán
- 04. Phẩm Trường Thọ
- 05. Phẩm Kim Cang Thân
- 06. Phẩm Danh Tự Công Đức
- 07. Phẩm Tứ Tướng
- 08. Phẩm Tứ Y
- 09. Phẩm Tà Chánh
- 10. Phẩm Tứ Đế
- 11. Phẩm Tứ Đảo
- 12. Phẩm Như Lai Tánh
- 13. Phẩm Văn Tự
- 14. Phẩm Điểu Dụ
- 15. Phẩm Nguyệt Dụ
- 16. Phẩm Bồ Tát
- 17. Phẩm Đại Chúng Vấn
- 18. Phẩm Hiện Bịnh
- 19. Phẩm Thánh Hạnh
- 20. Phẩm Phạm Hạnh
- 21. Phẩm Anh Nhi Hạnh
- 22. Phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát
- 23. Phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát
- 24. Phẩm Ca Diếp Bồ Tát
- 25. Phẩm Kiều Trần Như
- 26. Phẩm Di Giáo
- 27. Phẩm Ứng Tận Hườn Nguyên
- 28. Phẩm Trà Tỳ
- 29. Phẩm Cúng Dường Xá Lợi
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
PHẨMQUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ
ĐỨCVƯƠNG BỒ TÁT THỨ HAI MƯƠI HAI
Trang03
NầyThiện nam tử ! Luận về Niết Bàn, cũng có thể nói là định,cũng có thể nói là quả. Niết Bàn của tất cả chư Phậtlà thường, lạc, ngã, tịnh, nên nói là định không sanh giàhư hoại nên nói là định. Nhứt Xiển Đề phạm bốn tộinặng, hủy báng Đại Thừa, tạo tội ngũ nghịch, rời bỏbổn tâm, thời quyết định chứng đặng Niết Bàn, nên gọilà định.
NầyThiện nam tử ! Như ông vừa nói : Nếu có người nghe mộtchữ, một câu kinh Đại Niết Bàn, thời đặng vô thượngBồ Đề. Đối với nghĩa nầy, ông còn chưa hiểu rõ. Ôngnên lóng nghe ! Nếu có người nghe một câu, một chữ kinhĐại Niết Bàn, trong tâm chẳng có quan niệm tướng chữ,tướng câu, chẳng có tướng nghe, tướng Phật, tướng nóipháp, đây gọi là tướng, vô tướng. Do tướng vô tướngnên đặng vô thượng Bồ Đề.
NầyThiện nam tử ! Như ông vừa nói vì nghe tiếng ác, mà đếntam đồ, nghĩa đó không phải. Vì chẳng phải tiếng ác màđến tam đồ. Phải biết quả nầy là do tâm ác. Vì như cóngười nghe tiếng ác mà tâm chẳng sanh ác, do đây nên biếtchẳng phải do tiếng ác mà đọa trong tam đồ. Nhưng chúngsanh do nơi phiền não ác tâm quá nhiều mà phải sanh vào bađường ác, chẳng phải là do nơi tiếng ác. Nếu tiếng cótướng quyết định, những người nghe tiếng ác, lẽ ra tấtcả đều sanh tâm ác. Nay nghe tiếng ác, mà có người sanhtâm ác, có người chẳng sanh tâm ác, nên biết rằng tiếngkhông có tướng quyết định. Do vì không tướng quyết địnhnên dầu nghe tiếng ác mà chẳng sanh tâm ác.
_ BạchThế Tôn ! Tiếng nếu không quyết định, cớ sao Bồ Tát nayđặng nghe chỗ xưa chẳng nghe ?
_ NầyThiện nam tử ! Tiếng không có tướng quyết định nên làmcho Bồ Tát nay được nghe chỗ xưa chẳng nghe. Do nghĩa nầynên Như Lai nói xưa chỗ chẳng nghe, mà nay được nghe.
NầyThiện nam tử ! Thế nào là chỗ xưa chẳng thấy mà nay đượcthấy ? Đại Bồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn, trước lấy tướngsáng : Những ánh sáng mặt trời, mặt trăng, tinh tú, đènđuốc, bảo châu, lửa. Do tu tập ánh sáng mà đặng nhãn cănkhác lạ, khác hơn Thiên nhãn của Thanh Văn Duyên Giác. Thiênnhãn của Nhị thừa nếu nương nơi nhãn căn tứ đại cõidục thời chẳng thấy sơ thiền, nếu nương nơi nhãn cănsơ thiền thời chẳng thấy cõi trên, cũng chẳng thấy nhãncăn của chính mình, nhiều lắm là thấy tột đến đại thiênthế giới. Đại Bồ Tát chẳng tu thiên nhãn, thấy sắc thântốt đẹp đều là tướng xương trắng, dầu thấy sắc tướngtrong hằng hà sa thế giới khác, nhưng chẳng tưởng là sắctướng, chẳng tưởng là tướng thường, tướng có, tướngvật, tướng danh tự, chẳng tưởng là tướng thấy, cũngchẳng nói nhãn căn nầy có tướng thanh tịnh vi diệu, chỉthấy là tướng nhơn duyên cùng tướng chẳng phải nhơn duyên.Thế nào là nhơn duyên ? Sắc là cảnh duyên của nhãn căn.Giả sử sắc chẳng phải là nhơn duyên, thời tất cả phàmphu lẽ ra chẳng thấy tướng sắc. Thế nào là chẳng phảinhơn duyên ? Đại Bồ Tát dầu thấy sắc nhưng chẳng tườnglà tướng sắc , do đây nên chẳng phải là duyên. Vì thếnên thiên nhãn thanh tịnh của Bồ Tát khác vơi thiên nhãncủa Thanh Văn Duyên Giác. Trong một lúc, Bồ Tát thấy khắpchư Phật hiện tại ở mười phương thế giới. Cũng có thểthấy vi trần. Hàng Thanh Văn Duyên Giúac chẳng thấy đượcnhư thế. Bồ Tát dầu thấy nhãn căn của mình mà vẫn khôngcó tướng thấy, thấy tướng vô thường, thấy thân củaphàm phu có ba mươi sáu vật, chứa đầy những thứ bất tịnh,thấy rõ như xem trái a ma lặc trong bàn tay. Nếu thấy sắctướng của chúng sanh, Bồ Tát biết người nầy là căn tánhđại thừa hay tiểu thừa. Đụng chạm đến y phục của họ,Bồ Tát cũng biết người đó có những căn lành hay cănchẳng lành. Do đây nên gọi là xưa chỗ chẳng thấy mà nayđược thấy, cũng gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay đượcbiết. Vì khi thấy thời biết chỗ xưa chẳng biết, do vìbiết nên thấy chỗ xưa chẳng thấy.
NầyThiện nam tử ! Thế nào là Bồ Tát xưa chỗ chẳng biết mànay được biết ? Đại Bồ Tát dầu biết tâm tham, sân, sicủa phàm phu, nhưng vẫn chẳng tưởng là tâm và tâm sở,chẳng tưởng là chúng sanh cùng vật. Thường tu tướng rốtráo không đệ nhứt nghĩa, do tu tập tướng không, nên biếtđược chỗ xưa chẳng biết.
Biếtnhư thế nào ? Biết không có ngã không có ngã sở, biết tấtcả chúng sanh đều có Phật tánh. Vì có Phật tánh nên hàngNhứt Xiển Đề rời bỏ được bổn tâm thời sẽ đặngvô thượng chánh giác. Những điều trên đây hàng Thanh VănDuyên Giác chẳng biết được mà Bồ Tát có thể biết. Vìthế nên gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
ĐạiBồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn nhớ đời quá khứ tất cảchúng sanh bao nhiêu những dòngạo cha mẹ, anh em, vợ con, quyếnthuộc, bạn thân, kẻ thù. Trong một niệm Bồ Tát đặng tríkhác lạ, khác với trí huệ của Thanh Văn, Duyên Giác. Thếnào là khác ? Trí huệ của Thanh Văn, Duyên Giác nhớ đếndòng họ cha mẹ v.v… Của chúng sanh đời quá khứ mà cótướng dòng họ cha mẹ v.v… Bồ Tát dầu nghĩ nhớ dòng họcha mẹ thuở quá khứ, nhưng trọn chẳng tưởng có tướngdòng họ cha mẹ v… Mà thường thấy tướng không tịch. Đâygọi là Bồ Tát xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn đặng tha tâm trí khácvới Thanh Văn, Duyên Giác. Thế nào là khác? Hàng Thanh VănDuyên Giác lúc dùng một niệm trí biết tâm của người, thờichẳng thể biết tâm của chư thiên, ngạ quỉ, súc sanh, địangục. Trong một niệm Bồ Tát biết khắp tất cả tâm củalục đạo chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát xưa chỗ chẳngbiết mà nay được biết. Bồ Tát lại ở nơi trong một tâmrõ biết từ sơ tâm đến tâm thứ mười sáu của Tu Đà Hòan.Do đây nên gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.Đây là Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầyđủ phần công đức thứ hai.
NầyThiện nam tử ! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành kinh ĐạiNiết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ ba ? ĐạiBồ Tát bỏ lòng từ đặng lòng từ, lúc đặng lòngtừ chẳng do nhơn duyên. Thế nào là bỏ lòng từ đặng lòngtừ ? Từ gọi là thế đế. Đại Bồ Tát bỏ lòng từ thếđế đặng lòng từ đệ nhứt nghĩa. Lòng từ đệ nhứt nghĩachẳng do nhơn duyên. Lòng từ nếu là có thể bỏ thời gọilà lòng từ của phàm phu, lòng từ nếu có thể được thờigọi là lòng từ vô duyên của Bồ Tát, đặng lòng từ lânmẫn, đặng lòng từ của Như Lai, lòng từ nầy là lòng từ không nhơn duyên. Lại bỏ lòng từ của hoàng môn, của ngườikhông căn, hai căn, nữ nhơn, đồ tể thợ săn v.v… cũngbỏ lòng từ của Thanh Văn, Duyên Giác, đặng lòng từ vôduyên của Bồ Tát. Chẳng còn thấy lòng từ của mình cũngchẳng thấy lòng từ của người, cũng chẳng thấy trì giới,phá giới. Dầu tự thấy lòng bi nhưng chẳng thấy tướngchúng sanh. Dầu có chịu khổ nhưng chẳng thấy người chịukhổ. Vì Bồ Tát tu hành chơn thật không đệ nhứt nghĩa nênthành tựu đầy đủ phần công đức thứ ba như vậy. NầyThiện nam tử ! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành kinh ĐạiNiết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ tư ? Nơi đây có mười việc : Một là căn lành sâu không bị layđộng, hai là đối với thân mình có quan niệm quyết định,ba là chẳng thấy phước điền và chẳng phải phước điền,bốn là tu tập công hạnh thanh tịnh Phật độ, năm là diệttrừ ba thứ hữu dư, sáu là dứt trừ nghiệp duyên, bảy làtu thân thanh tịnh, tám là rõ biết các duyên, chín là lìanhững oán địch, mười là dứt trừ nhị biên.
Thếnào là căn lành sâu khó lay động. Căn lành đây là nói chẳngphóng dật, chẳng phóng dật là căn lành của vô thượng BồĐề. Cội gốc pháp lành của tất cả chư Phật đều do chẳngphóng dật. Vì chẳng phóng dật nên những căn lành khác lầnlần được tăng trưởng. Như trong các thứ dấu chân, dấuchân của voi là hơn hết, ở trong các pháp lành, chẳng phóngdật cũng là hơn hết. Như trong các thứ ánh sáng, ánh sángmặt trời là hơn hết, chẳng phóng dật cũng là hơn hếtcác pháp lành khác. Như vua Chuyển Luân là bực nhứt trongcác vua
chúa,chẳng phóng dật cũng là bực nhứt trong các pháp lành. Nhưtrong các dòng nước, bốn sông là hơn hết, chẳng phóng dậtcũng là hơn hết trong các pháp lành, như núi Tu Di là bựcnhứt trong các núi, chẳng phóng dật cũng là hạng bực nhứttrong các pháp lành. Như hoa sen xanh hơn tất cả những hoa mọctrong nước, chẳng phóng dật cũng là hơn hết trong các pháplành. Như hoa Bà Lợi Sư Ca hơn tất cả thứ hoa mọc trênđất, chẳng phóng dật cũng hơn hết các pháp lành khác.Như trong các loài thú, Sư Tử là hơn hết, chẳng phóng dậthơn những pháp lành khác. Như trong các loài chim, kim súy điểulà bực nhứt, chẳng phóng dật cũng là bực nhứt trong cácpháp lành. Như trong loài thân to lớn, vua A Tu La, La HầuLa, là to hơn cả, chẳng phóng dật cũng là hơn hết trong cácpháp lành. Như trong tất cả chúng sanh, đức Như Lai là tônquí nhứt, chẳng phóng dật cũng là bực nhứt trong các pháplành. Như trong các đoàn thể, chư Tăng là hơn hết, chẳngphóng dật cũng hơn hết trong các pháp lành. Như trong giáopháp của Phật, kinh Đại Niết Bàn là hơn hết, chẳng phóngdật cũng là hơn hết trong các pháp lành. Do những nghĩa nầynên căn lành chẳng phóng dật sâu bền khó lay động.
Thếnào là do chẳng phóng dật mà được thêm lớn các căn lành? Những căn lành : Tín, Giới, Bố Thí, trí huệ, nhẫn nhục,đa văn, tinh tấn, niệm định, thiện tri thức đều do chẳngphóng dật mà được thêm lớn.
NầyThiện nam tử ! Thế nào là đối với thân mình Bồ Tát cóquan niệm quyết định ? Bồ Tát quyết định biết rằng thâncủa ta đây quyết định sẽ làm pháp khí vô thượng bồđề ở đời vị lai, chẳng có tâm hẹp nhỏ, chẳng có tâmbiến đổi, chẳng sanh tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật, chẳngsanh tâm ma, tâm tự hưởng vui, tâm sanh tử. Thường vì chúngsanh cầu tâm từ bi. Đây gọi là Đại Bồ Tát tu hành kinhĐại Niết Bàn đối với thân mình sanh lòng quyết định.
NầyThiện nam tử ! Thế nào là Bồ Tát chẳng thấy phước điềnvà chẳng phải phước điền ? Những gì là phước điền? Ngoại đạo trì giới trên đến chư Phật đây gọi là phướcđiền. Nếu có người nghĩ rằng những bực nầy thuộc vềphước điền nên biết tâm niệm nầy hẹp kém.
ĐạiBồ Tát quán sát tất cả chúng sanh không ai chẳng phải làphước điền do vì Bồ Tát khéo tu tập niệm xứ khác lạ,nên quán sát chúng sanh không thấy có trì giới cùng hủy giới.Thường quán sát bốn pháp bố thí của Phật nói ra đềuđặng quả báo thanh tịnh. Những gì là bốn thứ bố thí? Một là thí chủ thanh tịnh, người thọ chẳng thanh tịnh.Hai là thí chủ chẳng thanh tịnh, người thọ thanh tịnh, balà thí chủ cùng người thọ đều thanh tịnh. Bốn là thíchủ cùng người thọ đều chẳng thanh tịnh.
Thíchủ có đủ trì giới đa văn trí huệ rõ biết nhơn cùngquả bố thí, người thọ thời phá giới tà kiến không tinbố thí cùng quả báo, đây gọi thí chủ thanh tịnh mà ngườithọ chẳng thanh tịnh.
Nếuthí chủ phá giới tà kiến không tin bố thí cùng quả báo,người thọ thời trì giới đa văn trí huệ biết có nhơncùng quả bố thí, đây gọi là thí chủ chẳng thanh tịnhngười thọ thời thanh tịnh.
Nếungười bố thí cùng người thọ đều trì giới đa văn tríhuệ biết có bố thí cùng quả báo, đây gọi là người thíngười thọ đều thanh tịnh.
Nếungười thí người thọ đều phá giới tà kiến không tin nhơncùng quả bố thí, đây gọi là người thí kẻ thọ đềuchẳng thanh tịnh.
_ BạchThế Tôn ! Nếu như vậy tại sao lại nói Bồ Tát được qủabáo thanh tịnh, vì không thí, không báo nên gọi là thanhtịnh ?
_ NầyThiện nam tử ! Nếu có người chẳng thấy bố thí cùng quảbáo bố thí, nên biết rằng, người nầy chẳng gọi là phágiới tà kiến.
NầyThiện nam tử ! Nếu y theo nhị thừa nói rằng chẳng thấybố thí cùng quả báo, đây gọi là phá giới tà kiến. Nếunương kinh Đại Niết Bàn nầy mà chẳng thấy bố thí cùngquả báo thời gọi là trì giới chánh kiến. Đại Bồ Tátcó niệm xứ khác lạ, do tu tập niệm xứ nầy nên chẳngthấy chúng sanh trì giới phá giới người thí người thọvà quả báo bố thí, nên được gọi là trì giới chánh kiến.Vì những nghĩa trên đây nên Đại Bồ Tát chẳng thấy phướcđiền và chẳng phải phước điền.
Thếnào gọi là thanh tịnh cõi Phật ? Đại Bồ Tát tu hành kinhĐại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đề vì độ chúng sanh,nên lìa tâm giết hại. Do căn lành nầy nguyện cùng tất cảchúng sanh đồng thành Phật, nguyện chúng sanh đặng thọ mạngdài lâu có thế lực lớn được thần thông lớn. Do sứcthệ nguyện nầy, nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật,tất cả chúng sanh trong cõi nước được thọ mạng dài lâucó thế lực lớn và thần thông lớn.
ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì vô thượng Bồ Đềvì độ chúng sanh, nên lìa tâm trộm cướp. Đem căn lành nầynguyện cùng tất cả chúng sanh, đồng thành Phật. Nguyệncõi nước thuần là bảy báu, chúng sanh đầy đủ vật cầndùng tùy theo ý muốn. Do sức thệ nguyện nầy, nên đời vịlai lúc Bồ Tát thành Phật, cõi nước thuần là bảy báu,chúng sanh giàu đủ tùy ý tự tại.
ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì vô thượng bồ dề,vì độ chúng sanh, nên lìa tâm tham dục. Đem căn lành nầynguyện cùng chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện tất cả chúngsanh không có tham dục, sân khuể, ngu si, cũng không có ngườiđói khát khổ não. Do sức thệ nguyện nầy, nên đời vịlai lúc Bồ Tát thành Phật chúng sanh trong cõi nước xa lìatâm tham dục sân khuể, ngu si, không có người đói khát khổnão.
ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đềvì độ chúng sanh nên lìa tâm vọng ngữ. Đem căn lành nầynguyện tất cả chúng sanh cùng thành Phật. Nguyện cáccõi nước thường có cây bông, cây trái, cây mùi thơm, chúngsanh đều được tiếng nói tốt. Do sức thệ nguyện nầynên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, cõi nước thườngcó cây bông, cây trái, cây mùi thơm chúng sanh đều đượctiếng nói tốt thanh tịnh.
ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đềvì độ chúng sanh nên xa lìa tâm lưỡng thiệt. Đem căn lànhnầy nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyệncác cõi nước tất cả chúng sanh thường hòa hiệp nhau, cùngnhau giảng nói chánh pháp. Do sức thệ nguyện nầy, nên đờivị lai lúc Bồ Tát thành Phật, tất cả chúng sanh trong cõinước đều hòa hiệp nhau cùng nhau giảng luận pháp yếu.
ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì vô thượng Bồ Đề,vì độ chúng sanh nên xa lìa tâm ác khẩu. Đem căn lành nầynguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật, nguyện cáccõi nước mặt đất bằng thẳng, không có sạn sỏi gai góc,chúng sanh đều có tâm bình đẳng. Do sức thệ nguyện nầy,nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, cõi nước bằngthẳng không có sạn sỏi gai góc, tâm chúng sanh đều bìnhđẳng.
ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đề,vì độ chúng sanh nên lìa lời nói vô nghĩa. Đem căn lànhnầy nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyệnchúng sanh không có khổ não. Do sức thệ nguyện nầy, nênđời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, tất cả chúng sanh trongcõi nước không có khổ não.
ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì vô thượng Bồ Đềvì độ chúng sanh nên xa lìa tâm tham lam tật đố. Đem cănlành nầy nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật.Nguyện chúng sanh không có tham lam tật đố, não hại, tà kiến.Do sức thệ nguyện nầy, nên đời vị lai lúc Bồ Tát thànhPhật, chúng sanh trong cõi nước đều không có tâm tham lam,tật đố, não hại, tà kiến.
ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đềvì độ chúng sanh, nên xa lìa tâm não hại. Đem căn lành nầynguyện cùng tất ca ûchúng sanh đồng thành Phật. Nguyện chúngsanh đồng tu tập đại từ đại bi, đặng bực nhứt tử.Do sức thệ nguyện nầy nên đời vị lai lúc Bồ Tát thànhPhật, chúng sanh trong cõi nước đều tu tập đại từ đạibi, được bực nhứt tử.
ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đềvì độ chúng sanh nên xa lìa tà kiến đem căn lành nầy nguyệncùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện chúng sanhđều được Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật. Do sức thệ nguyện nầy,nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, chúng sanh trong cõinước đều được thọ trì Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, đây gọilà Bồ Tat tu hành thanh tịnh cõi Phật.
Thếnào Đại Bồ Tát dứt trừ hữu dư ? Hữu dư có ba thứ :Một là phiền não dư báo, hai là dư nghiệp, ba là dư hữu.
Nếucó chúng sanh quen gần tham dục, báo nầy thành thục phảiđọa nơi địa ngục, ra khỏi địa ngục phải thọ thân súcsanh : Bồ câu, se sẽ v.v… các loài chim, ca,ù trạch cùng khỉ,vượn cheo, nai v.v… Nếu được làm người, thời phải thọthân hoàng môn, phụ nữ, hai căn, không căn, dâm nữ. Nếuđược xuất gia thời phạm giới trọng ban đầu. Đây gọilà dư báo.
Nếucó chúng sanh quen gần sân, khuể, báo nầy thành thụcphải đọa địa ngục. Ra khỏi địa ngục phải thọ thânsúc sanh : Rắn độc, sư tử, cọp, sói, beo, gấu, mèo, chồn, ó, diều, v.v… Nếu được làm người thời đủ cả mườisáu nghiệp ác. Nếu được xuất gia thời phạm giới trọngthứ ba. Đây gọi là dư báo.
Nếucó chúng sanh quen gần ngu si, báo nầy thành thục sẽ đọađịa ngục. Ra khỏi địa ngục phải thọ thân súc sanh : Voi,heo, bò, trâu, dê, rận, rệp, muỗi, ruồi, kiến, mối v.v…Nếu được làm người thời bị đui, điếc, câm, ngọng,lưng gù, tàn tật, thời không thể học tập. Nếu đượcxuất gia thời ưa phạm giới trọng. Đây gọi là dư báo.
Nếucó người quen gần kiêu mạn, báo nầy thành thục sẽ đọađịa ngục. Ra khỏi địa ngục thọ thân súc sanh : Lạc đà,lừa , ngựa, chó v.v… Nếu được làm người thọ thân tôitớ nghèo cùng ăn xin. Nếu được xuất gia thường bị chúngsanh khinh tiện, phạm giới thứ tư. Đây gọi là dư báo.
Nhưtrên đây gọi là phiền não dư báo. Đại Bồ Tát do tu tậpkinh Đại Niết Bàn đều có thể trừ diệt.
Thếnào là dư nghiệp ? Tất cả nghiệp của phàm phu, nghiệp củaThanh Văn : Tu Đà Hoàn có nghiệp bảy lần thọ thân, Tư ĐàHàm có nghiệp hai lần thọ thân, A Na Hàm có nghiệp thọ thâncõi sắc, đây gọi là dư nghiệp. Đại Bồ Tát tu tập kinhĐại Niết Bàn đều có thể dứt trừ những nghiệp dư nầy.
Thếnào là dư hữu ? A La Hán đặng quả A La Hán, Bích Chi Phật đặng quả Bích Chi Phật, không nghiệp, không kiết sử, màcòn hai quả, đây gọi là dư hữu.
ĐạiBồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn đều có thể trừ ba thứhữu dư trên đây, nên gọi là Đại Bồ Tát diệt trừ hữudư.
Thếnào là Bồ Tát tu thân thanh tịnh ? Đại Bồ Tát tu giới bấtsát có năm thứ tâm : Hạ, trung, thượng, thượng thượng,thượng trung thượng, nhẫn đến chánh kiến cũng lại nhưvậy. Năm mươi tâm nầy gọi là sơ phát tâm. Quyết địnhđầy đủ thành tựu năm mươi tâm nầy đây gọi là viênmãn. Một trăm tâm như vậy gọi là một trăm phước đức.Đầy đủ một trăm phước làm thành một tướng tốt. Lầnlượt đầy đủ thành tựu ba mươi hai tướng tốt, thờigọi là thân thanh tịnh. Sở dỉ lại tu tám mươi vẻ đẹp,vì trong đời có chúng sanh phụng thờ tám mươi vị ThiênThần : Thập nhị nhựt Thần, mười hai vị Trời lớn, nămngôi sao lớn, sao Bắc Đẩu, Mã Thiên , Hành Đạo Thiên, BàLa Đọa Bạt Xà Thiên, Công Đức Thiên,Nhị Thập Bát Tú,Địa Thiên, Phong Thiên, Thủy Thiên , Hỏa Thiên, Phạm Thiên, Lâu Đà Thiên, Nhơn Đề Thiên,, Câu Ma La Thiên, Bát Tý Thiên,Ma Hê Thủ La Thiên, Bàn Xà La Thiên, Qủi Tử Mẫu Thiên, TứThiên Vương Thiên, Tạo Thơ Thiên, Bà Tẩu Thiên, đây gọilà tám mươi. Vì những chúng sanh nầy mà Bồ Tát tu tập támmươi vẻ đẹp để trang nghiêm nơi thân. Đây gọi là BồTát tu thân thanh tịnh. Vì tám mươi thiên thần nầy đượcchúng sanh kính trọng, nên Bồ Tát tu tập tám mươi vẻ đẹp,thân thể không đổi dời, làm cho chúng sanh tùy theo lòng tin,đều được thấy, sanh lòng tôn kính mà phát tâm vô thượngBồ Đề.
Vínhư có người muốn thỉnh Quốc Vương, thời phải sửa sangtrần thiết nhà cửa cho thật sạch sẽ khéo léo, sắm đủtrăm thứ thực phẩm thơm ngon rồi sau mới rước QuốcVương ngự đến nhà. Cũng vậy, Đại Bồ Tát muốn thỉnhđấng Pháp Vương Vô Thượng Bồ Đề, thời phải trướctu thân cho thật thanh tịnh, rồi sau Pháp Vương mới đếnngự.
Vínhư có người muốn uống chất cam lộ thời phải trướcrửa thân thật sạch. Cũng vậy, Đại Bồ Tát muốn uốngPháp vị Vô Thượng Bát Nhã Ba La Mật, trước phải tu támmươi vẻ đẹp để trang nghiêm nơi thân.
Vínhư đem bình vàng, chậu bạc đựng nuớc trong sạch thờicả trong lẫn ngoài đều trong sạch. Cũng vậy, Đại Bồ Tátdùng thân thanh tịnh chứa Vô Thượng Bồ Đề, thời trongngoài đều thanh tịnh.
Nhưy trắng Ba La Nại dễ ăn màu thuốc nhuộm, vì chất y vốntrắng sạch. Cũng vậy, Đại Bồ Tát do thân thanh tịnh nênmau thành Vô Thượng Bồ Đề.
Donghĩa nầy nên Đại Bồ Tát tu thân thanh tịnh, thế nào làBồ Tát khéo biết các duyên ?
ĐạiBồ Tát chẳng thấy sắc tướng, chẳng thấy sắc duyên, chẳngthấy sắc thể, chẳng thấy sắc sanh, chẳng thấy sắc diệt,chẳng thấy một tướng, chẳng thấy nhiều tướng, chẳngthấy người thấy, chẳng thấy tướng mạo, chẳng thấy ngườithọ, vì đã rõ nhơn duyên. Như đối với sắc, tất cả phápcũng như vậy. Đây gọi là Bồ Tát rõ biết các duyên.
Thếnào là Bồ Tát lìa các thù địch ?
BựcNgũ Trụ Bồ Tát chẳng xem phiền não là oán thù. Vì do phiềnnão mà Bồ Tát có thọ sanh, do thọ sanh nên có thể xoay vầngiáo hoá chúng sanh.
Nhữnggì là oán thù đối với Bồ Tát ?
Chínhlà kẻ hủy báng kinh điển Đại Thừa. Bồ Tát thọ sanh khôngsợ địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, chỉ sợ kẻ hủy bángkinh điển Đại Thừa. Có tám thứ ma là oán thù của BồTát, xa lìa được tám thứ ma nầy thời gọi là lìa thù địch.
Thếnào là Bồ tát xa lìa hai bên ?
Haibên là hai mươi lăm cõi và ái phiền não. Bồ Tát luôn xalìa hai mươi lăm cõi cùng ái phiền não.
Đâygọi là Đại Bồ tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựuđầy đủ phần công đức thứ tư.
CaoQuý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Nhưlời đức Phật vừa
nói: Nếu Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thời thành tựumười công đức như vậy. Cớ sao Đức Như Lai chỉ tucó chín điều mà không tu tịnh độ ?”
Phậtnói : “ Nầy Thiện nam tử ! Từ xưa ta thường tu tậpđủ cả mười điều. Tất cả Đại Bồ Tát cùng tất cảNhư Lai không có ai là chẳng tu tập trọn cả mười điềunhư vậy.
Giảsử thế giới đầy dẫy nhơ uế, không bao giờ Như Lai xuấthiện nơi ấy.
NầyThiện nam tử ! Ông chớ cho rằng chư Phật xuất hiện nơithế giới nhơ uế. Nên biết rằng tâm tưởng như vậy làkém hẹp chẳng tốt. Ông nên biết rằng thiệt ra ta khôngcó xuất hiện nơi Diêm Phù Đề.
Nhưcó người nói riêng cõi nầy có mặt nhựt, mặt nguyệt, cõikhác không có. Lời nói nầy không có nghĩa lý.
Nếucó Bồ Tát nói cõi nầy nhơ uế xấu xa, cõi khác thanh tịnhxinh đẹp đây cũng là lời không có nghĩa lý.
NầyThiện nam tử ! Về phương Tây, cách cõi Ta Bà nầy bốn mươihai hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Vô Thắng, nhữngsự trang nghiêm xinh đẹp trong cõi đó đều bình đẳng, nhưcõi Cực Lạc, như cõi Mãn Nguyệt. Hiện tại ta xuất hiệntrong cõi Vô Thắng đó. Vì hoá độ chúng sanh nên ta thị hiệnchuyển pháp luân nơi Diêm Phù Đề nầy.
Chẳngphải riêng gì thân ta thị hiện chuyển pháp luân nơi cõinầy, mà tất cả Chư Phật cũng chuyển pháp luân trong cõinầy.
Donghĩa nầy nên Chư Phật đều tu đủ cả mười điều nhưvậy.
NầyThiện nam tử ! Do thệ nguyện, nên đời đương lai, Từ ThịBồ Tát làm cho cõi nầy trở thành thanh tịnh trang nghiêm.
Donghĩa nầy nên tất cả thế giới của chư Phật đều thanhtịnh trang nghiêm.
NầyThiện nam tử ! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành kinh ĐạiNiết Bàn, thành tựu đầy đủ phần công đức thứ năm ?Nơi đây có năm điều công đức, một là nơi thân các căn đều trọn vẹn ; hai là chẳng sanh chốn biên địa, ba làchư Thiên Thần mến tưởng ; bốn là thường được chư Thiên,Ma Vương, Sa Môn, Bà La Môn v.v… cung kính, năm là được trítúc mạng. Do năng lực kinh Đại Niết Bàn mà Bồ Tát đồngđủ năm công đức như vậy.
CaoQuý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Ngàytrước Phật dạy : Nếu có người bố thí thời được nămcông đức. Sao nay Như Lai lại bảo nhơn kinh Đại Niết Bànmà đặng năm công đức ?”
Phậtnói : “ Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện nam tử ! Các côngđức ấy đều có nghĩa sai khác. Nay ta sẽ vì ông mà giảngnói.
Nămđiều công đức do bố thí mà được là không định, khôngthương, không tịnh, không thắng, không lạ, không phải vôlậu, không thể lợi ích an lạc xót thương tất cả chúngsanh.
Nếulà năm điều công đức do y theo kinh Đại Niết Bàn mà đượcthời là định, là thường, là tịnh, là thắng, là lạ, làvô lậu, có thể lợi ích an lạc xót thương tất cả chúngsanh.
NầyThiện nam tử ! Xét về người bố thí thời xa lìa đói khát.KinhĐại Niết Bàn có thể làm cho chúng sanh đều được xa lìabịnh khát ái trong hai mươi lăm cõi. Do nơi bố thí làm chosanh tử nối luôn, kinh Đại Niết Bàn có thể làm cho sanhtử phải dứt. Nhơn bố thí nên thọ lấy pháp phàm phu., nhơnkinh Đại Niết Bàn mà được pháp Bồ Tát. Do bố thí nêndứt được sự nghèo cùng khổ não, kinh Đại Niết Bàn cóthể dứt tất cả sự nghèo thiếu về pháp. Do bố thí màcó phần, có quả, do kinh Đại Niết Bàn mà được vô thượngBồ Đề không phần không quả.
Đâygọi là Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ năm.
Thếnào là Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầyđủ phần công đức thứ sáu ?
ĐạiBồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn được Kim Cang Tam Muội.An trụ trong chánh định nầy thời phá tan được tất cảpháp. Thấy tất cả pháp đều là vô thường, đều là tướnglay động, là nhơn duyên của sự khủng bố, bịnh khổ, cướptrộm, niệm niệm dứt hoại không chơn thiệt. Tất cả đềulà cảnh giới của ma, không có tướng đáng thấy.
ĐạiBồ Tát an trụ trong tam muội nầy, nhẫn đến không thấymột chúng sanh thiệt. Vì chúng sanh mà Bồ Tát tinh cần tutập Thi La Ba La Mật, nhẫn đến Bát Nhã Ba La Mật. Nếu BồTát còn thấy có một chúng sanh thời không thể rốt ráo đầyđủ Đàn Ba La Mật nhẫn đến Bát Nhã Ba La Mật.
NầyThiện nam tử ! Ví như vật gì bị chất kim cang dóa đậpthời đều bể tan, mà chất kim cang nầy không hề hư tổn.Cũng vậy, pháp gì bị Kim cang tam muội chiếu đến thời đềunát rã, mà tam muội nầy không hề hao tổn.
Trongcác thứ châu báu, chất kim cang là hơn tất cả. Cũng vậy,trong các tam muội, Kim cang tam muội là thứ nhứt. Vì Bồ Táttu tập tam muội nầy thời tất cả tam muội đều đến quythuộc.
Nhưcác vua chúa nhỏ đều đến quy thuộc Chuyển Luân Thánh Vương,tất cả chánh định đều đến quy thuộc Kim cang tam muội.
Vínhư có người là kẻ thù địch của quốc gia mọi ngườiđều nhàm ghét, ai giết được người nầy thời cả nướcđều ngợi khen công lao. Cũng vậy, Bồ Tát tu tập Kim Cangtam muội có thể phá hoại oán thù của tất cả chúng sanh,thế nên thường được tất cả tam muội tôn kính.
Vínhư có người mạnh mẽ không ai cự lại, nếu có ngườithắng được người nầy thời được người đời khen tặng.Cũng vậy, Kim Cang tam muội có sức phá dẹp những pháp khóphá, nên được tất cả tam muội đến quy thuộc.
Nhưngười đến tắm nơi biển lớn, phải biết rằng ngườinầy đã dùng nước của các sông ngòi suối ao. Cũng vậy,Bồ Tát tu tập Kim Cang tam muội, thời là đã tu tập tấtcả tam muội khác.
Nhưtrong Hương Sơn có một suối nước tên A Na Bà Đạp Đa, ngườinào được uống nước suối nầy thời không có những bịnhhoạn, vì nước suối nầy đủ tám vị. Cũng vậy, Kim Cangtam muội đủ tám chánh đạo, Bồ Tát tu tập tam muội nầythời dứt sạch những bịnh nặng phiền não tội lỗi.
Nhưngười cúng dường Trời Ma Hê Thủ La, thời là đã cúng dườngtất cả Chư Thiên. Cũng vậy, người tu tập Kim Cang tam muộithời là đã tu tập tất cả tam muội khác.
NầyThiện nam tử ! Nếu Bồ Tát an trụ trong Kim Cang tam muội thờithấy tất cả pháp không bị chướng ngại, như xem trái AMa Lặc trong bàn tay. Bồ Tát nầy dầu được thấy như vậy,nhưng trọn không có quan niệm là thấy tất cả pháp.
Nhưcó người ngồi nơi ngã tư đường, thấy mọi người đi,đứng, ngồi, nằm. Cũng vậy, Bồ Tát an trụ Kim Cang tam muộithời thấy sự sanh diệt mọc lặn của tất cả pháp.
Nhưngười lên núi cao trông xa thấy rõ tất cả cảnh vật. Cũngvậy, Bồ Tát lên núi Kim Cang chánh định thời thấyrõ tất cả pháp.
Nhưmùa xuân, trời mưa láy pháy, giọt mưa li ti không có chỗhở trống, người mắt sáng thời thấy rõ ràng. Cũng vậy,Bồ Tát đặng mắt thanh tịnh Kim Cang tam muội, thấyrõ những thế giới thành hoại ở mười phương, không chướngngại.
Nhưdo núi Càn Đà, bảy mặt trời đồng mọc, bao nhiêu cây cốinơi núi ấy đều cháy cả. Cũng vậy, Bồ Tát tu tập Kim Cangtam muội thời bao nhiêu rừng rậm phiền não liền tiêu diệt.
Nhưchất kim cang dầu có thể phá nát tất cả vật, nhưng trọnkhông có quan niệm rằng ta hay phá nát. Cũng vậy, Bồ Táttu tập Kim Cang tam muội có thể phá phiền não mà trọn chẳngcó quan niệm niệm rằng ta hay phá hoại phiền não. Như quảđất có thể giữ gìn muôn vật nhưng trọn chẳng có quanniệm rằng sức ta có thể giữ gìn ; lửa cũng chẳngnghĩ rằng ta hay đốt cháy ; nước cũng chẳng nghĩ rằng tahay thấm nhuần ; gió cũng chẳng nghĩ rằng ta hay thổi động; hư không cũng chẳng nghĩ rằng ta hay dung chứa ; Niết Bàncũng chẳng nghĩ rằng ta làm cho chúng sanh đặng diệt độ.Cũng vậy, Kim Cang tam muội dầu có thể diệt trừ tất cảphiền não, nhưng vẫn không nghĩ rằng ta hay diệt trừ.
Nếucó Bồ Tát an trụ nơi Kim Cang tam muội nầy, trong khoảng mộtniệm biến vô lượng thân như Phật, khắp cả hằng hà sathế giới ở mười phương, dầu biến hoá như vậy nhưngBồ Tát vẫn không có lòng kiêu mạn. Vì Bồ Tát thường nghĩrằng : Ai có chánh định nầy và biến hoá được như vậy? Chỉ có Bồ Tát an trụ Kim Cang tam muội nầy mới có thểbiến hóa như vậy. Bồ Tát nầy trong một niệmđi khắp hằnghà sa thế giới ở mười phương rồi trở về bổn xứ, dầucó thần lực như vậy nhưng cũng chẳng nghĩ rằntg ta đượcthần lực ấy đó là do sức của Kim Cang tam muội. Bồ Tátnầy lại ở trong một niệm có thể dứt những phiền nãocủa chúng sanh trong hằng hà sa thế giới ở mười phương,mà vẫn không có quan niệm rằng ta hay dứt phiền nãocủa chúng sanh, đó là do sức Kim Cang tam muội. Bồ Tát nầydùng một tiếng nói để thuyết pháp làm cho tất cả chúngsanh riêng theo loài của mình mà đặng hiểu rõ, lại thịhiện một sắc thân mà làm cho tất cả chúng sanh đều riêngthấy sắc thân riêng khác. Bồ Tát ở an một chỗ thân khôngdời đổi mà có thể làm cho chúng sanh theo chỗ ở của nóđều đặng thấy Bồ Tát diễn nói một pháp : Hoặc giới,hoặc nhập, mà tất cả chúng sanh đều riêng theo chỗ đãhiểu biết mà đặng nghe đó.
BồTát an trụ Kim Cang tam muội dầu thấy chúng sanh mà vẫn khôngcó tướng chúng sanh, dầu thấy nam nữ nhưng không tướngnam nữ, dầu thấy sắc thọ vị nhưng không có tướng sắcthọ vị, dầu thấy ngày đêm mà không có tướng ngày đêm,dầu thấy tất cả pháp nhưng không có tướng tất cả pháp,dầu thấy tất cả phiền não kiết sử cũng không có tướngtất cả phiền não, dầu thấy tám thánh đạo mà không cótướng tám thánh đạo, dầu thấy Bồ Đề thấy Niết Bànnhưng không có tướng Bồ Đề, Niết Bàn, vì tất cả phápvốn không có tướng. Bồ Tát nầy do sức Kim Cang tam muộinên thấy tất cả pháp bổn lai không có tướng.
NầyThiện nam tử ! Thế nào gọi là Kim Cang tam muội ? Như chấtKim cang nếu ở trong ánh nắng thời màu sắc chẳng nhứt định.Cũng vậy, Kim Cang tam muội ở trong đại chúng cũng chẳngnhứt định, vì thế nên gọi là Kim Cang tam muội.
Nhưchất Kim cang tất cả người đời không thể bình luận giácả. Cũng vậy, Kim Cang tam muội có bao nhiêu công đức tấtcả trời người không thể nghĩ lường được, do đây nênlại gọi là Kim Cang tam muội.
Nhưngười nghèo đặng báu Kim cang thời hết nghèo cùng khốnkhổ, lại khỏi ác quỉ tà độc. Cũng vậy, Đại Bồ Tátđược tam muội nầy thời có thể dứt hết phiền não khổhoạn xa lìa các ma tà độc, do đây nên gọi là Kim Cang tammuội.
Đâygọi là Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầyđủ phần công đức thứ sáu.
Thếnào là Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựuđầy đủ phần công đức thứ bảy ?
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát nầy nghĩ rằng : Pháp gì cóthể làm nhơn duyên gần với Đại Niết Bàn ? Bồ Tát nầyliền biết có bốn điều : Làm nhơn duyên gần, nếu rờibốn pháp nầy thời không thể được Đại Niết Bàn : Vìthế nên nói rằng siêng tu tất cả khổ hạnh mà được ĐạiNiết Bàn, thời không đúng.
Đâylà bốn điều : Một là gần gũi bạn lành ; hai là chuyêntâm nghe pháp ; ba là nhiếp niệm tư duy ; bốn là tu hành đúngpháp.
Nhưcó người mang bịnh : Hoặc nóng, hoặc lạnh, hư lao, các tàquỉ độc, người bịnh nầy, tìm đến lương y, lương y liềntheo bịnh cho thuốc. Người bịnh nầy hết lòng y theo lờichỉ dẫn của lương y, uống thuốc đúng cách, bịnh đượclành, thân được an. Người bịnh dụ cho Bồ Tát. Lươngy dụ cho thiện tri thức. Phương thuốc của lương y nóidụ cho kinh Đại Thừa. Y theo lời chỉ dẫn của lương y dụcho khéo suy nghĩ nghĩa lý của kinh Đại Thừa. Hiệp thuốcuống đúng cách dụ cho tu hành đúng pháp. Bịnh lành dụ chodứt hết phiền não. Thân an dụ cho đặng Niết Bàn thường,lạc, ngã, tịnh.
Vínhư có Quốc Vương muốn cai trị đúng pháp, làm cho nhơn dânđược an vui, nhà vua hỏi cách cai trị nơi các quan. Các quanbèn đem cách thức của Tiên Vương tâu với Quốc Vương. QuốcVương liền chí tâm tin tưởng thật hành theo, đúng như phápcai trị nước nhà, làm cho cả nước không giặc cướp, nhơndân an vui. Quốc Vương dụ cho Bồ Tát, các quan dụ cho bạnlành. Cách thức cai trị của các quan tâu dụ cho mười haibộ kinh. Quốc Vương hết lòng tin tưởng thật hành dụ choBồ Tát nhiếp tâm tư duy nghĩa lý của mười hai bộ kinh.Quốc Vương cai trị đúng pháp dụ cho Bồ Tát tu hành đúngtheo sáu môn Ba La Mật. Cả nước không giặc cướp dụ choBồ Tát đã lìa phiền não kiết sử. Nhơn dân đượcan vui dụ cho Bồ Tát chứng được Đại Niết Bàn thường,lạc, ngã, tịnh.
Nhưcó người bị bịnh phong hủi, có trí thức bảo rằng : Nếuông đến được bên núi Tu Di thời bịnh có thể lành. Vìnơi đó có vị thuốc hay như cam lộ, uống được thuốc đóthời bịnh gì cũng lành. Người bịnh tin theo lời đi đếnbên núi hái lấy thuốc cam lồ mà uống, tật bịnh liền hết,thân được an vui. Người bịnh dụ cho phàm phu. Trí thứcdụ cho Đại Bồ Tát. Tin theo lời bảo dụ cho bốn tâm vôlượng. Núi Tu Di dụ tám thánh đạo. Vị thuốc cam lồ dụcho Phật tánh. Bịnh hủi được lành dụ lìa phiền não. Đặngan vui dụ đặng Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
Vínhư có người nuôi những đệ tử thông minh trí huệ, ngàyđêm người nầy luôn dạy dỗ chẳng biết mõi. Bồ Tát cũngnhư vậy, tất cả chúng sanh hoặc tin, hoặc chẳng tin, BồTát luôn giáo hóa không biết nhàm mõi.
NầyThiện nam tử ! Thiện tri thức là nói chư Phật Bồ Tát vàhàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, cùng những người tin kinh ĐạiThừa. Thế nào gọi là thiện tri thức ? Hàng thiện tri thứccó thể chỉ dạy cho chúng sanh xa lìa mười điều ác,tu hành mười điều lành, do nghĩa nầy nên gọi là thiệntri thức. Lại hàng thiện tri thức lời nói đúng như phápthật hành đúng như lời nói, chính là tự mình chẳng sátsanh cũng bảo người chẳng sát sanh, nhẫn đến tự mình cóchánh kiến, cũng đem chánh kiến dạy cho người.
Nềucó thể được như đây thời gọi là chơn thiệt thiện trithức. Tự mình tu tập Bồ Đề cũng có thể dạy người tuhành Bồ Đề. Tự mình tu hành chánh tín, trì giới, bố thí,đa văn, trí huệ, cũng có thể dạy người như vậy, do đâynên gọi là thiện tri thức.
NầyThiện nam tử ! Hàng thiện tri thức có thiện pháp. Nhữnggì là thiện
pháp? Những việc của mình thật hành chẳng mong cầu tựvui, mà thường vì chúng sanh cầu an vui, thấy người kháccó lỗi không rao nói, miệng thường tuyên nói những việcthuần thiện, do đây nên gọi là thiện tri thức.
NầyThiện nam tử ! Như mặt trăng từ đêm mùng một đến đêmrằm lần lần thêm lớn đầy đủ. Cũng vậy, thiện tri thứclàm cho những người học đạo lần lần xa lìa pháp ác, thêmlớn pháp lành. Nếu người gần gũi thiện tri thức, từ trướcchưa có giới định huệ giải thoát, giải thoát tri kiếnnay bèn có đó, người chưa đầy đủ thời được thêm rộng,do vì gần gũi thiện tri thức. Sự gần gũi nầy làm cho ngườilại được rõ thấu nghĩa sâu của mười hai bộ kinh. Nếucó thể chăm nghe nghĩa sâu của mười hai bộ kinh thời gọilà thính pháp. Nghe kinh Đại Thừa thời gọi là chơn thậtthính pháp. Chơn thật thính pháp chính là nghe kinh Đại NiếtBàn, nghe có Phật tánh, Như Lai rốt ráo chẳng nhập NiếtBàn, do đây nên gọi là chuyên tâm thính pháp. Chuyên tâm thínhpháp gọi là tám thánh đạo, do tám thánh đạo có thể dứttham dục, sân khuể, ngu si, nên gọi là thính pháp. Xétvề người thính pháp gọi là mười một pháp không, do phápkhông nầy đối với tất cả pháp chẳng thấy có tướngmạo. Xét về người thính pháp gọi là sơ phát tâm nhẫnđến rốt ráo tâm vô thượng Bồ Đề, nhơn nơi sơ tâm màđặng Đại Niết Bàn, chẳng phải do nghe pháp mà đặng ĐạiNiết Bàn. Chính là do tu tập nên chứng Đại Niết Bàn. Nhưngười bịnh dầu nghe lời chỉ dẫn của lương y cùng têncủa món thuốc nhưng chẳng thể lành bịnh, phải do uốngthuốc bịnh mới được lành. Dầu nghe mười hai nhơn duyênnhưng chẳng thể dứt được tất cả phiền não, cầnphải nhiếp niệm khéo tư duy mới dứt được phiền não.Đây gọi là pháp nhiếp niệm tư duy thứ ba. Lại do nghĩagì gọi là nhiếp niệm tư duy ? Đây là nói ba môn tam muội: Không tam muội, vô tướng tam muội, vô tác tam muội. Khônglà đối với hai mươi lăm cõi chẳng thấy một cõi nào làcó thật. Vô tác là đối với hai mươi lăm cõi chẳng mongcầu. Vô tướng là không có mười tướng, chính là khôngcó sắc tướng, thinh tướng, hương tướng, vị tướng, xúctướng, sanh tướng, trụ tướng, diệt tướntg, nam tướng,nữ tướng. Tu tập ba môn tam muội như vậy thời gọi làBồ Tát nhiếp niệm tư duy.
Thếnào gọi là tu hành đúng pháp ? Chính là tu hành ĐànBa La Mật nhẫn đến Bát Nhã Ba La Mật, biết tướng chơnthật của ấm nhập giới, cũng biết Thanh Văn, Duyên Giácchư Phật đồng một đạo mà nhập Niết Bàn, chính là thường,lạc, ngã, tịnh, chẳng sanh già, bịnh, chết, chẳng đói khát,khổ não, chẳng thối chuyển chẳng hư mất.
NầyThiện nam tử ! Người hiểu nghĩa sâu của Đại Niết Bàn,thời biết chư Phật trọn chẳng rốt ráo nhập Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Bực thiện tri thức chơn thật thứ nhứt làBồ Tát và chư Phật, vì bực nầy thường dùng ba pháp khéođiều ngự : Một là lời nói hoàn toàn dịu hòa, hai là hoàntoàn quở trách, ba là dịu hòa cùng quở trách. Do đây nênBồ Tát và chư Phật là bực thiện tri thức chơn thật. Phậtvà Bồ tát là bực đại lương y nên gọi là thiện tri thức,vì biết bịnh, biết thuốc, cho thuốc đúng bịnh.
Vínhư lương y thông thạo tám môn trị bịnh xem bịnh có ba tướng: Phong, nhiệt, hàn. Người bịnh phong cho uống thuốc dầutô, người bịnh nhiệt cho uống thuốc thạch mật, ngườibịnh hàn cho uống nước gừng. Do biết gốc bịnh cho thuốcđược lành nên gọi là lương y. Cũng vậy, Chư Phật và BồTát biết phàm phu có ba thứ bịnh :Tham dục, sân khuể, ngusi. Người tham dục dạy quán tướng xương trắng, ngườisân khuể dạy quán từ bi, người ngu si dạy quán mười hainhơn duyên. Do đây nên chư Phật và Bồ Tát gọi là thiệntri thức.
Nhưthuyền chủ vì giỏi đưa người nên gọi là đại thuyềnchủ. Cũng vậy, Chư Phật và Bồ Tát đưa chúng sanh khỏibiển sanh tử nên gọi là thiện tri thức.
NầyThiện nam tử ! Do Phật và Bồ Tát làm cho chúng sanh đượctu hành đầy đủ những căn lành. Ví như núi Tuyết là nơisản xuất những cội gốc thuốc hay vi diệu. Cũng vậy, chưPhật và Bồ Tát là chỗ xuất sanh tất cả căn lành, do đâynên gọi là thiện tri thức.
Trongnúi Tuyết có vị hương dược tên là Ta Ha, người nào thấythuốc nầy thời được sống lâu, không có bịnh khổ, bốnthứ độc không làm hại được. Người nào rờ đụng thuốcnầy thời sống lâu đủ một trăm hai mươi tuổi. Ngườinào nhớ thuốc nầy thời được trí túc mạng. Đó là dothế lực của vị thuốc nầy. Cũng vậy, chư Phật và BồTát, nếu ai được thấy thời tất cả phiền não đều trừ,bốn ma chẳng nhiễu loạn được. Người nào gần gũi chưPhật và Bồ Tát, vì được nghe pháp, nên được trườngthọ chẳng bị sanh tử. Người nào tưởng niệm chư Phậtvà Bồ Tát thời được vô thượng Bồ Đề. Do đây nên chưPhật và Bồ Tát gọi là thiện tri thức.
Nhưtrong Hương Sơn có ao A Na Bà Đạp Đa, từ ao nầy thành nguồnbốn con sông lớn : Sông Hằng, sông Vân Đầu, sông Tư Đà,sông Bác Xoa. Người đời thường nói rằng : Nếu ngườicó tội tắm nơi bốn con sông nầy thời tội đều tiêu diệt.Nên biết lời nói nầy là hư vọng chẳng thật. Chỉ có chưPhật và Bồ Tát mới là chơn thật. Vì người nào đượcgần gũi thời tất cả tội chướng đều tiêu trừ. Do đâynên chư Phật và Bồ Tát gọi là thiện tri thức.
Vínhư trên mặt đất có bao nhiêu cỏ thuốc, rừng cây, trămgiống lúa, mía nho, các thứ bông trái. Gặp trời nắng hạnsắp khô chết, Nan Đà Long Vương vì xót thương chúng sanhnên ra khỏi biển lớn làm mưa xối xuống, nhờ đó tất cảcỏ cây bông trái đều được tươi tốt. Cũng vậy, tấtcả chúng sanh có bao nhiêu căn lành sắp tiêu diệt, chư Phậtvà Bồ Tát sanh lòng đại bi từ biển trí huệ rưới phápcam lồ, làm cho chúng sanh được mười hai pháp lành. Do đâynên chư Phật và Bồ Tát gọi là thiện tri thức.
Vínhư lương y thông thạo tám môn trị bịnh, thấy những ngườibịnh thời lo chữa trị, không ngó đến dòng họ, đẹp xấucũng không nghĩ đến châu báu, do đây nên người đời xưngtặng là đại lương y. Cũng vậy, chư Phật và Bồ Tát thấychúng sanh có bịnh phiền não, liền sanh lòng từ mẫn mà thuyếtpháp, không ngó đến dòng họ đẹp xấu cùng của cải, chúngsanh được nghe pháp, phiền não liền trừ diệt. Do đây nênchư Phật và Bồ Tát gọi là thiện tri thức. Do vì gần gũithiện hữu nên được gần Đại Niết Bàn.
Thếnào là Bồ Tát nhờ nghe pháp mà đặng gần với Đại NiếtBàn ? tất cả chúng sanh do nghe pháp mà có tín căn, vì cótín căn nên thích thật hành bố thí , trì giới, nhẫn nhục,tinh tấn , thiền định và trí huệ, được quả Tu Đà Hoànnhẫn đến quả Phật. Do đây nên biết rằng được nhữngpháp lành đều là thế lực của sự nghe pháp.
Vínhư trưởng giả chỉ có một con trai, ông sai con đến nướckhác buôn bán đổi chác. Ông chỉ rành đường sá, rồi lạidặn rằng : Nếu gặp dâm nữ thời con phải cẩn thận, chớgần gũi, nếu thương yêu gần gũi thời mất tiền của vàthân mạng cũng khó bảo toàn, cũng chớ giao du với ngườitệ ác. Người con kính thuận theo lời dạy của cha, thântâm an ổn được nhiều của báu mang về.
ĐạiBồ Tát giáo hóa chúng sanh cũng như vậy, chỉ rành đườngđạo cùng những pháp chướng ác. Nhờ nghe pháp mà chúng sanhxa lìa những điều ác, đầy đủ những pháp lành đây làdo sự thính pháp mà được gần với Đại Niết Bàn.
Vínhư gương sáng soi rõ mặt người. Cũng vậy, người đượcnghe pháp thời thấy rõ pháp lành, pháp ác, do đây nên đượcgần Đại Niết Bàn.
Vínhư nhà tìm châu bảo chẳng biết đường sá, có người hiểubiết chỉ đường, bèn đến được chỗ châu báu. Cũng vậy,tất cả chúng sanh muốn đến chỗ lành để lấy pháp bảo,chẳng biết phương pháp tu hành, nhờ Bồ Tát chỉ dạy, chúngsanh tuân theo mà được đến chỗ lành đặng pháp bảo vôthượng Đại Niết Bàn. Đây là do nghe pháp mà đặng gầnvới Đại Niết Bàn.
Vínhư voi say hung dữ, có nhà điều tượng dùng móc sắt mócrách da đầu, voi say liền điều thuận hết tâm hung dữ. Cũngvậy, tất cả chúng sanh do tham, sân , si nên muốn gây tạonhiều tội ác, Bồ Tát vì họ thuyết pháp, làm cho họ dứthết tâm ác, do đây nên gần được Đại Niết Bàn. Vì thếnên Như Lai ở trong các kinh bảo hàng đệ tử phải nhiếptâm lóng nghe và lãnh thọ mười hai bộ kinh, tu bảy giác chi,lìa năm thứ cái chướng. Do tu tập bảy giác chi thời đượcgần Đại Niết Bàn.
Dothính pháp mà Tu Đà Hoàn lìa những sự khủng bố :
Trưởnggiả Tu Đạt Đa trước kia mang bịnh nặng, ông rất lo rầusợ sệt. Sau khi được nghe Xa Lợi Phất nói bực Tu Đà Hoàncó bốn công đức, dùng mười thứ ví dụ để an ủi. Trưởnggiả nghe rồi liền hết sợ sệt. Đây cũng là do thính phápmà được gần Đại Niết Bàn, vì được mở thông pháp nhãn.
Trongđời có ba người : Một là không con mắt, hai là một conmắt, ba là đủ hai mắt. Người không con mắt dụ cho thườngchẳng được nghe pháp. Người một con mắt dụ cho đượctạm thời nghe pháp mà tâm không được an trụ. Người đủhai con mắt dụ cho chuyên tâm nghe pháp lãnh thọ và thực hành,do đây được gần Đại Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Ngày trước lúc ta ở thành Câu Thi Na, Xá LợiPhất đương bịnh khổ. Ta sai A Nan đến thuyết pháp. Lúcđó Xá Lợi Phất nghe A Nan thuyết pháp, bèn bảo bốn ngườiđệ tử khiêng giường bịnh đến chỗ Phật để nghe pháp.Do phước lực nghe Phật thuyết pháp nên Xá Lơiï Phất đượclành bịnh thân thể an ổn. Vì thế nên nghe chánh pháp thờiđược gần Đại Niết Bàn.
Thếnào là Bồ Tát do tư duy mà được gần Đại Niết Bàn ? Nhơnsự tư duy nầy mà tâm được giải thoát. Vì tất cả chúngsanh thường bị ngũ dục ràng buộc, do tư duy nên đều đượcgiải thoát. Đây là do tư duy mà được gần Đại NiếtBàn.
Tấtcả chúng sanh thường bị thường, lạc, ngã, tịnh làm điênđảo. Do tư duy nên được thấy các pháp là vô thường, vôlạc, vô ngã, vô tịnh. Nhờ sự thấy nầy mà hết điên đảo.Đây cũng là do tư duy mà được gần Đại Niết Bàn.
Tấtcả pháp có bốn tướng : sanh tướng, lão tướng, bịng tướng,diệt tướng. Do bốn tướng nầy làm cho phàm phu đến Tu ĐàHoàn bị nhiều sự khổ não. Nếu người có thể nhiếp niệmkhéo tư duy, dầu gặp bốn tướng nầy nhưng chẳng bị khổnão. Đây cũng là do tư duy mà được gần Đại Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Tất cả pháp lành đều do tư duy mà được.Vì có người dầu trải qua vô lượng vô biên vô số kiếpchuyên tâm thính pháp, nếu chẳn tư duy thời trọn không thểđược vô thượng Bồ Đề. Đây cũng là do tư duy màđược gần Đại Niết Bàn.
Nếucó chúng sanh tin Phật, Pháp, Tăng không biến đổi nên sanhlòng cung kính. Nên biết rằng đây là do năng lựccủa sự nhiếp niệm tư duy mới được dứt trừ tất cảphiền não. Đây cũng là do tư duy mà được gần Đại NiếtBàn.
Thếnào là Bồ Tát tu hành đúng chánh pháp ? Nầy Thiện nam tử! Dứt những pháp ác tu các pháp lành thời gọi là Bồ Táttu hành đúng pháp. Lại thấy tất cả pháp trống rỗng khôngchỗ có, không thường, không lạc, không ngã, không tịnh,do sự thấy biết nầy nên thà bỏ thân mạng chẳng phạmcấm giới. Đây gọi là Bồ Tát tu hành đúng pháp.
Tucó hai thứ : Chơn thật và chẳng thật. Chẳng biết tướngcủa Niết Bàn, Phật Tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, thật tướng,tướng hư không v.v… đây gọi là chẳng thật. Nếu biếtthời gọi là chơn thật.
Thếnào gọi là biết tướng của Niết Bàn ? Niết Bàn có támđiều : Một là sạch hết, hai là tánh lành, ba là thật, bốnlà chơn, năm là thường, sáu là lạc, bảy là ngã, tám làtịnh. Niết Bàn lại có tám điều : Một là giải thoát, hailà tánh lành, ba là chẳng thật, bốn là chẳng chơn, năm làvô thường, sáu là vô lạc, bảy là vô ngã, tám là vô tịnh.
NiếtBàn lại có sáu tướng : Một là giải thoát, hai là tánh lành,ba là chẳng thật, bốn là chẳng chơn, năm là an lạc,sáu là thanh tịnh.
Nếuchúng sanh y theo đạo thế tục mà dứt phiền não, thời NiếtBàn đó có tám điều giải thoát chẳng chơn thật, vì làvô thường. Vì vô thường nên là không thật, vì khôngthật thời không chơn. Dầu dứt phiền não nhưng rồi sẽkhổ trở lại, do đây nên không có thường, lạc, ngã, tịnh,đây gọi là Niết Bàn có tám điều giải thoát không thật.
ThanhVăn Duyên Giác vì dứt phiến não nên gọi là giải thoát nhưngchưa được vô thượng Bồ Đề, đây gọi là chẳng thậtvì chẳng thật nên chẳng chơn. Đời vị lai sẽ được vôthượng Bồ Đề nên là vô thường. Vì được tám thánhđạo vô lậu nên gọi là thanh tịnh an lạc, đây gọi làNiết Bàn có sáu tướng.
NầyThiện nam tử ! Nếu biết như vậy đó là biết Niết Bàn,chẳng gọi là biết Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, thật tướng,hư không.
Phậttánh có sáu điều : Một là thường, hai là tịnh, ba là thật,bốn là thiện, năm là sẽ thấy, sáu là chơn. Phật tánh lạicó bảy điều : Sáu điều như trên, bảy là có thể chứng,đây gọi là Bồ Tát biết Phật tánh.
NhưLai chính là tướng giác ngộ, tướng lành, là thường, lạc,ngã, tịnh, là giải thoát chơn thật, dạy đạo có thể thấyđược, đây gọi là Bồ Tát biết tướng Như Lai.
Pháplà hoặc lành chẳng lành, hoặc thường chẳng thường, hoặclạc chẳng lạc, hoặc ngã chẳng ngã, hoặc tịnh chẳng tịnh,hoặc tri chẳng tri, hoặc giải chẳng giải, hoặc chơn chẳngchơn, hoặc tu chẳng tu, hoặc sư chẳng phải sư, hoặc thậtchẳng thật, đây gọi là Bồ Tát biết pháp tướng.
Thế nào là Bồ Tát biết Tăng tướng ?
Tănglà thường, lạc, ngã, tịnh, là tướng đệ tử, tướng cóthể thấy, là thiện , là chơn, chẳng thật, vì tất cả ThanhVăn sẽ được thành Phật, vì tỏ ngộ chơn tánh nên gọilà chơn. Đây gọi là Bồ Tát biết tướng của Tăng.
Thiệttướng là : Hoặc thường, vô thường, hoặc lạc, vô lạc,hoặc ngã, vô ngã, hoặc tịnh, vô tịnh, hoặc thiện, bấtthiện, hoặc có, hoặc không, hoặc Niết Bàn, hoặc chẳngphải Niết Bàn, hoặc giải thoát, hoặc chẳng phải giảithoát, hoặc tri, hoặc bất tri, hoặc đoạn, hoặc bất đoạn,hoặc chứng, hoặc chẳng chứng, hoặc tu, hoặc chẳng tu, hoặcthấy, hoặc chẳng thấy, đây gọi là thiệt tướng, chẳngphải là Niết Bàn Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, hư không.
Đâygọi là Bồ Tát nhơn tu kinh Đại Niết Bàn nầy biết tướngsai khác của Niết Bàn, Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, thiệttướng, hư không.
NầyThiện nam tử ! Đại Bồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn chẳngthấy hư không, vì Phật và Bồ Tát dầu có ngũ nhãn nhưngchẳng thấy, chỉ có huệ nhãn mới thấy được. Chỗ thấycủa huệ nhãn là không có pháp thấy được nên gọi là thấy.Nếu là không có vật gọi là hư không, thời hư không ấygọi là thật, do vì thật thời gọi là thường không, vìthường không nên không có lạc, ngã và tịnh.
NầyThiện nam tử ! Trống không gọi là không có pháp, không cópháp gọi là trống không. Như trong đời chỗ không có vậtgọi là trống không, tánh hư không cũng như vậy, vì khôngchỗ có nên gọi là hư không.
NầyThiện nam tử ! Tánh chúng sanh cùng tánh hư không đều khôngcó thiệt tánh. Như có người nói rằng :Trừ dứt những vậtcó rồi sau mới là không. Nhưng hư không nầy thiệt chẳngthể làm ra, vì là không chỗ có, đã không chỗ có nênbiết là không có hư không. Tánh hư không nầy nếu có thểlàm ra thời gọi là vô thường, nếu là vô thường thờichẳng gọi là hư không.
NầyThiện nam tử ! Như người đời nói rằng hư không là khôngsắc chất, không cách ngại, là thường chẳng biến đổi,do đây nên trong đời gọi tánh hư không là đại chủng thứnăm. Nhưng hư không nầy thiệt ra không có tánh, do ánh sángnên gọi là hư không, thật ra không có hư không. Như thếđế thiệt ra không có tánh vì thuận theo chúng sanh mà nóilà có thế đế.
NầyThiện nam tử ! Thể Niết Bàn cũng không có chỗ trụ, chínhnơi chư Phật dứt sạch phiền não mà gọi là Niết Bàn. NiếtBàn chính là thường, lạc, ngã, tịnh. Niết Bàn dầu là lạc,nhưng chẳng phải là thọ lạc, bèn là sự vui tịch diệtvi diệu vô thượng. Chư Phật có hai thứ vui : Một là tịchdiệt lạc, hai là giác tri lạc. Thể thiệt tướng có ba thứvui : Một là thọ lạc, hai là tịnh diệt lạc, ba là giáctri lạc. Phật tánh có một thứ vui, vì sẽ được thấy,lúc chứng vô thượng Bồ Đề thời gọi là Bồ Đề lạc.
CaoQuý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật : “ Bạch Thế Tôn ! Nếuchỗ phiền não dứt là Niết Bàn thời không phải. Vì xưakia lúc Đức Như Lai mới thành Phật, đi đến bờ sông NiLiên Thiền, Ma Vương cùng quyến thuộc đến chỗ Phật thưarằng : Thời kỳ Niết Bàn đã đến sao Thế Tôn chẳng nhập?”
Phậtbảo Ma Vương : Nay ta chưa có hàng đa văn đệ tử giới hạnhtinh nghiêm
Tríhuệ thông minh, có thể giáo hoá chúng sanh, nên ta chẳng nhậpNiết Bàn.
Nếunói rằng chỗ phiền não dứt là Niết bàn, Bồ Tát từ vôlượng kiếp đã dứt phiền não, cớ sao chẳng đặng gọilà Niết Bàn ? Đều đồng dứt, cớ sao gọi riêng chư Phậtcó Niết Bàn, còn Bồ Tát thời không ? Nếu dứt phiền nãochẳng phải là Niết Bàn cớ sao ngày trước đức Như Laibảo ông Sanh Danh : Chính thân của ta đây là Niết Bàn. ?
LúcNhư Lai ở nước Tỳ Xá Ly, Ma Vương lại đến thưa : ThếTôn ngày trước nói rằng vì chưa có hàng đệ tử đa văntrì giới thông minh trí huệ có thể giáo hóa chúng sanh, nênThế Tôn chẳng nhập Niết bàn. Nay đã đầy đủ cớ sao ThếTôn chẳng nhập ? Như Lai bảo Ma Vương : Sau đây ba tháng tasẽ nhập Niết Bàn.
BạchThế Tôn ! Giả sử diệt độ chẳng phải nhập Niết bàn,tại sao đức Như Lai lại hẹn ba tháng sẽ nhập Niết Bàn?
BạchThế Tôn ! Nếu dứt phiền não là Niết Bàn, ngày trước lúcđức Như Lai ngồi nơi đạo tràng Bồ Đề dứt hết phiềnnão bèn là Niết Bàn, sao lại nói với Ma Vương sau ba thángsẽ nhập Niết Bàn ?
BạchThế Tôn ! Nếu lúùc đó là Niết Bàn, tại sao lại tuyênbố đến cuối đêm sẽ nhập Niết Bàn ?
ĐứcNhư Lai là đấng thành thiệt, cớ sao lại nói những lờihư vọng như vậy ?
Phậtbảo Cao Quý Đức Vương Bồ Tát : “ Nầy Thiện nam tử !Như Lai đã đặng tướng lưỡi rộng dài, phải biết rằngNhư Lai từ vô lượng kiếp đã lìa vọng ngữ. Tất cả chưPhật và Bồ Tát phàm có nói ra đều là lời thành thật chắcchắn không hư dối.
NầyThiện nam tử ! Ngày trước Ma Ba Tuần thỉnh Phật nhập NiếtBàn, mà Ma Vương chẳng biết tướng Niết Bàn. Ý Ma Vươngcho rằng chẳng giáo hoá chúng sanh yên lặng bất động đólà Niết Bàn. Ví như người đời thấy có ai chẳng nói chẳnglàm, bèn cho rằng người nầy như chết. Ý Ma Vương cũngnhư vậy.
NầyThiện nam tử ! Như Lai chẳng nói Phật Pháp và chúng Tăngkhông có tướng sai khác. Chỉ nói thường trụ và thanh tịnhhai pháp nầy không sai khác. Phật cũng chẳng nói Phật cùngPhật tánh và Niết Bàn không có tướng sai khác, chỉ nóithường hằng bất biến là không sai khác, Phật cũng chẳngnói Niết Bàn và thiệt tướng không có tướng sai khác, chỉnói thường trụ và thật chẳng biến đổi không có sai khác.
NầyThiện nam tử ! Có lúc hàng Thanh Văn đệ tử của tasanh sự tránh tụng, như các Tỳ Kheo ở nước Câu Diêm Vitrái lời dạy của Phật phạm nhiều cấm giới, chẳng kínhtrọng Phật, Pháp, Tăng, giới luật hòa thượng. Những TỳKheo ác nầy chẳng tin lời dạy của Phật. Vì những ngườinầy mà ta bảo Ma Ba Tuần ông chớ lo rằng chậm. Sau ba thángta sẽ nhập Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Nhơn vì các Tỳ Kheo ác nầy, khiến hàng ThanhVăn chẳng thấy thân của ta, chẳng nghe ta thuyết pháp, bèncho rằng Như Lai nhập Niết Bàn. Chỉ hàng Bồ Tát thấy đượcthân ta, thường nghe ta thuyết pháp, nên chẳng cho rằngPhật nhập Niết Bàn.
Dầuhàng Thanh Văn nói rằng Như Lai nhập Niết Bàn, nhưng thậtra ta chẳng nhập Niết Bàn.
NếuThanh Văn đệ tử của ta nói rằng Như Lai nhập Niết Bàn,phải biết người nầy chẳng phải đệ tử của Phật, làbè đảng của ma, là người tà kiến chẳng phải chánh kiến.Nếu nói Như Lai chẳng nhập Niết bàn, phải biết ngườinầy thiệt là đệ tử Phật, là người chánh kiến chẳngphải bè đảng của ma.
NầyThiện nam tử ! Ta chẳng thấy trong hàng đệ tử có ngườinào cho rằng Như Lai chẳng giáo hóa chúng sanh yên lặng bấtđộng gọi là Niết bàn.
Vínhư trưởng giả có đông con cái, đi đến xứ khác chưa trởvề. Những người con đều cho rằng cha mình đã chết. Nhưtrưởng giả nầy thiệt chẳng chết, mà những người conđiên đảo tưởng rằng chết. Cũng vậy, hàng Thanh Văn đệtử vì chẳng thấy Phật, bèn cho rằng Như Lai đã nhập NiếtBàn trong rừng Ta La nơi thành Câu Thi Na, nhưng thật ra ta chẳngnhập Niết Bàn, mà hàng Thanh Văn tưởng là nhập Niết Bàn.
Vínhư ngọn đèn sáng, có người che kín đó, những kẻ khôngbiết cho rằng đèn đã tắt, nhưng đèn sáng nầy thiệt chẳngtắt, vì không biết nên cho là tắt. Cũng vậy, hàng Thanh Vănđệ tử dầu có huệ nhãn nhưng bị phiền não che đậy làmcho tâm điên đảo chẳng thấy được thân chơn thật củaPhật, bèn tưởng là Phật diệt độ, nhưng thiệt ra ta chẳngdiệt độ.
Nhưngười sanh manh chẳng thấy mặt trời mặt trăng, chẳng biếtngày đêm sáng tối, vì chẳng biết bèn nói rằng không cómặt trời mặt trăng thiệt, do vì không thấy nên sanh tưởngđiên đảo. Cũng vậy, hàng Thanh Văn đệ tử, vì chẳngthấy Như Lai bèn cho rằng Phật nhập Niết Bàn. Nhưng thậtra Như Lai chẳng nhập Niết Bàn.
Vínhư mây mù che khuất mặt trời mặt trăng, kẻ ngu si cho rằngkhông có mặt trời mặt trăng. Cũng vậy, Vì các phiền nãoche đôi mắt trí huệ nên hàng Thanh Văn chẳng thấy Như Laibèn cho rằng Như Lai nhập Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Đây là đức Như Lai thị hiện Anh Nhi Hạnhchớ chẳng phải diệt độ.
NầyThiện nam tử ! Như lúc mặt trời lặn, vì Hắc Sơn che khuấtmặt trời, nên chúng sanh Diêm Phù Đề chẳng thấy, nhưngthật ra mặt trời không có lặn, vì không thấy nên chúngsanh tưởng là lặn. Cũng vậy, hàng Thanh Văn đệ tử bịphiền não che ngăn chẳng thấy thân Phật, vì chẳng thấynên cho rằng Như Lai nhập Niết Bàn, nhưng thiệt ra Phậtchẳng nhập Niết Bàn.
Dođây nên Phật ở nước Tỳ Da Ly bảo Ma Ba Tuần : Sau ba thángta sẽ nhập Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Như Lai thấy trước rằng Ca Diếp Bồ Tátsau ba tháng căn lành sẽ thành thục, cũng thấy núi HươngSơn ông Tu Bạt Đà La an cư xong sẽ đến chỗ ta, nên ta bảoMa Ba Tuần sau ba tháng sẽ nhập Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Có năm trăm lực sĩ mãn ba tháng cũng sẽ pháttâm vô thượng Bồ Đề, vì họ nên ta bảo ma Ba Tuần sauba tháng Phật sẽ nhập Niết Bàn.
NầyThiện nam tử ! Bọn ông Thuần Đà năm trăm Lê Xa tử, vàAm La nữ
Sauba tháng thời đạo tâm vô thượng sẽ thành thục, vì nhữngngười nầy nên ta bảo ma Ba Tuần sau ba tháng Như Lai sẽ nhậpNiết Bàn.