Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 5: Văn Thù Sư Lợi Thăm Bệnh

10/10/201015:00(Xem: 3317)
Chương 5: Văn Thù Sư Lợi Thăm Bệnh

Chương v.
VĂN-THÙ-SƯ-LỢI THĂM BỆNH
[1]

Lúc ấy, Phậtnói với Văn-thù-sư-lợi[2]:

«Ông hãy đithăm bệnh Duy-ma-cật.»

Văn-thùđáp:
«Bạch Thế Tôn,với bậc Thượng nhân ấy, không dễ đối đáp. Vì ông đã thâm nhập thật tướng,thuyết giảng tài tình các yếu nghĩa của Phật Pháp. Tài biện thuyết của ôngthông suốt, trí tuệ của ông vô ngại. Ông biết rõ Bồ tát đạo vì đã bước vào khotàng huyền nhiệm của chư Phật. Ông đã hàng phục mọi tà ma; du hý thần thông,[3]trí tuệ và phương tiện đều sở đắc vẹn toàn.[4] Tuy vậy con sẽ vâng Thánh chỉđến thăm bệnh ông.»

Bấy giờ, trongchúng, các vị Bồ tát, đại đệ tử của Phật; Đế Thích, Phạm thiên, cùng bốn vịThiên vương, thảy đều tự nghĩ: «Nay hai vị Đại sỹ Văn-thù và Duy-ma-cật gặpnhau, ắt sẽ nói Pháp vi diệu.» Cho nên tám ngàn Bồ tát, năm trăm Thanh-văn vàhàng trăm ngàn thiên vương đều muốn đi theo Văn-thù-sư-lợi.

Vậy làVăn-thù-sư-lợi được chư Bồ tát, đệ tử Phật, hàng trăm nghìn trời và người đềumuốn đi theo. Rồi thì, Văn-thù-sư-lợi cùng với đoàn tùy tùng cung kính vâyquanh gồm các Bồ-tát, chúng Đại Đệ tử, và các trời, nguời, cùng vào thành lớnTỳ-da-li.

Lúc bấy giờ,Trưởng giả Duy-ma-cật tâm niệm: «Văn-thù-sư-lợi và đoàn tùy tùng đang đến.» Ôngbèn dùng thần lực khiến cho nội thất trống rỗng. Tất cả đồ đạc cho đến gia nhânđều mất hết. Chỉ đặt mỗi cái giường bệnh để nằm mà thôi.

Văn-thù-sư-lợiđi vào nhà, thấy căn nhà trống không, không có gì cả, chỉ một mình Duy-ma-cậtnằm trên giường bệnh.

Duy-ma-cậtnói:

«Xin chàongài Văn-thù-sư-lợi. Ngài bằng tướng không đến mà đến, tướng không thấy màthấy[5].»

Văn-thù-sư-lợiđáp:

«Thật nhưvậy, Cư sĩ, nếu đã đến thì không còn đến nữa. Nếu đã đi thì không còn đinữa.[6] Vì sao? Đến, không từ đâu đến. Đi, không đi đến đâu.[7] Cái đã có thểbị thấy thì không còn bị thấy nữa. Nhưng hãy gác việc này qua một bên. Cư sỹ,bệnh của ông, có kham nỗi không? Việc điều trị thế nào, có thuyên giảm chứkhông tăng phải không? Thế Tôn ân cần gởi lời hỏi thăm vô lượng.[8] Cư sĩ, vìsao ông mắc bệnh? đã lâu chưa? chừng nào sẽ hết?»

Duy-ma-cậtđáp:

«Si và hữu áilà nguồn gốc của bệnh tôi.[9] Vì hết thảy chúng sinh bệnh mà tôi bệnh. Bao giờhết thảy chúng sinh đạt đến chỗ không bệnh, bệnh tôi sẽ hết. Vì sao? Bồ tát, vìchúng sinh mà đi vào sinh tử. Có sinh tử thì có bệnh. Nếu hết thảy chúng sinhđược thoát ly bệnh khổ thì Bồ tát không còn bệnh. Ví như, vị trưởng giả chỉ cóđứa con một; khi người con ấy bị bệnh, cha mẹ nó cũng bị bệnh. Nếu nó bìnhphục, cha mẹ nó khỏe. Cũng vậy, Bồ tát yêu thương chúng sinh như cha mẹ yêucon, nên chúng còn bệnh thì Bồ tát còn bệnh; khi chúng hết bệnh, Bồ tát khỏe!Câu hỏi tiếp theo là, bệnh của Bồ tát từ đâu phát sinh? Bệnh của Bồ tát xuấtphát từ tâm đại bi.»

Văn-thù-sư-lợihỏi: «Sao thất này trống không và chẳng có người hầu?»[10]

Duy-ma-cậtđáp: «Quốc độ của chư Phật nào mà chẳng trống không.»

Lại hỏi:«Quốc độ của chư Phật do cái gì mà không ?»[11]

Lại đáp: «Vìkhông nên không.»[12]

Lại hỏi: «ĐãKhông, cần gì Không nữa?»[13]

Lại đáp: «Vìvô phân biệt Không, cho nên Không.»[14]

Lại hỏi:«Không,[15] có thể phân biệt ư ?»

Lại đáp: «Mọiphân biệt cũng không.»

Lại hỏi:«Phải tìm Không ở đâu?»

Lại đáp:«Phải tìm trong sáu mươi hai kiến chấp.»[16]

Lại hỏi: «Sáumươi hai kiến chấp phải tìm ở đâu?»

Lại đáp: «Nêntìm trong giải thoát của chư Phật.»

Lại hỏi: «Tìmsự giải thoát của chư Phật ở đâu?»

Lại đáp: «Nêntìm trong tâm hành của hết thảy chúng sinh.»

Và ông tiếp:«Ngài có hỏi sao tôi chẳng có gia nhân. Vâng, thì bọn Ma và các Ngoại đạo làgia nhân của tôi. Vì sao? Vì bọn Ma ưa sinh tử mà Bồ tát chẳng xả bỏ sinh tử.Ngoại đạo ham kiến chấp mà Bồ tát bất động[17] trong mọi kiến chấp.»

Lại hỏi:«Bệnh của cư sĩ thuộc tướng gì?»

Lại đáp:«Bệnh tôi vô hình, không thể thấy.»[18]

Lại hỏi:«Bệnh này hiệp với thân hay hiệp với tâm?»[19]

Lại đáp: “Nókhông phải thân hiệp vì nằm ngoài thân. Cũng không phải tâm hiệp vì tâm vốn nhưhuyễn.[20]»

Lại hỏi:«Trong bốn đại[21], đất, nước, lửa, gió, bệnh thuộc đại nào ?»

Lại đáp:«Bệnh ấy không phải địa đại cũng không lìa địa đại. Thuỷ, hỏa, phong đại cũngvậy. Nhưng bệnh của chúng sinh phát sinh từ bốn đại. Vì chúng sinh ấy có bệnh,nên tôi bệnh.»

Bấy giờVăn-thù-sư-lợi hỏi Duy-ma-cật[22]: «Bồ tát nên vấn an một Bồ tát đang thọ bệnhnhư thế nào?»

Duy-ma-cậtnói: «Nói về sự vô thường của thân mà chớ nói ghê tởm và từ bỏ thân. Nên nói vềthân khổ đau mà không nói Niết- bàn an lạc. Nói về vô ngã của thân mà vẫn nóivề sự giảng dạy và hướng dẫn chúng sinh[23]. Nói về thân không tịch mà khôngnói rốt ráo tịch diệt. Nói về sám hối tội lỗi trong quá khứ nhưng không nóinhập vào quá khứ.[24] Vì đã bệnh nên thương cảm người đang mắc bệnh kia. Biếtrằng mình đã chịu đau khổ từ vô lượng quá khứ; mà làm lợi ích cho hết thảychúng sinh. Nên nghĩ nhờ phước mà mình đã tu mà suy niệm về mạng thanhtịnh.[25] Chớ sinh buồn phiền bức rức, mà hãy thường xuyên phát khởi tinh tấn.Nên hành động như bậc y vương để cứu chữa bệnh người. Bồ tát nên an ủi một Bồtát đang bệnh như vậy để khiến cho hoan hỷ.»

Văn-thù-sư-lợihỏi: «Làm sao Bồ tát đang bệnh chế ngự được tâm mình?»

Duy-ma-cậtđáp: «Bồ tát đang bệnh nên nghĩ rằng: bệnh này đến từ những phiền não và vọngtưởng điên đảo của nhiều đời trước.[26] Không có pháp nào là thật, vậy thì aiđang thọ bịnh? Tại sao vậy? Do bốn đại hoà hợp mà giả danh là thân. Bốn đại vôchủ, thân cũng vô ngã. Vả chăng, bệnh khởi đều do bám chấp tự ngã.[27] Vì vậy khôngnên bám chấp tự ngã này.[28]

«Khi đã tỏtường nguồn căn của bệnh, Bồ tát liền loại trừ tưởng về ngã và tưởng về chúngsinh, và tưởng;[29] về pháp sẽ hiện khởi.[30] Bồ tát nên nghĩ như vầy: ‹Thânđược hợp thành do bởi nhiều pháp. Khởi, chỉ là sự sinh khởi của pháp. Diệt, chỉlà sự huỷ diệt của pháp.› Vả lại, các pháp này không nhận biết lẫn nhau. Khisinh khởi, nó không nói, ‹Ta khởi.› Khi diệt, nó không nói, ‹Ta diệt.› Để diệttrừ tưởng về pháp này, Bồ tát đang bệnh nên nghĩ: ‹Tưởng về pháp này cũng làmột thứ đảo điên. Cái gì điên đảo, cái đó là đại hoạn. Ta phải rời xa nó.›[31]Thế nào là rời xa? Rời xa ngã và ngã sở. Rời xa ngã và ngã sở nghĩa làsao? Rời xa pháp hai.[32] Pháp hai nghĩa là sao? Là không nghĩ đến pháp trongthân lẫn pháp ngoài thân,[33] mà hành nơi bình đẳng.[34] Bình đẳng là gì? Đôngđẳng ngã, đồng đẳng Niết-bàn.[35] Tại sao như vậy? Vì ngã và niết-bàn đềukhông. Tại sao cả hai đều không? Vì chỉ là danh tự, cho nên là không. Hai phápnày như vậy không có quyết định tính.[36]

«Đạt đượctính bình đẳng này rồi thì không còn bịnh nào khác ngoại trừ còn có cái bịnhcủa không. Cái bịnh của không cũng là không.

“Bồ tát đangbịnh ấy tiếp thọ các cảm thọ[37] bằng vô sở thọ. Tuy chưa thành tựu Phật pháp,nhưng vẫn có thể chứng nghiệm mà không cần diệt tận thọ.

«Biết thân làđối tượng của khổ đau, ông nên nghĩ đến chúng sinh ở những cõi thấp kém hơn màkhởi lòng đại bi, rằng ‹Ta đã được điều trị.[38] Ta cũng sẽ điều trị hết thảychúng sinh. Chỉ trừ bịnh chứ không trừ pháp.[39] Chỉ dẫn chúng cắt đứt gốc rễbịnh. Gốc rễ của bệnh là gì? Đó là có vin níu.[40] Từ chỗ có vin níu mà phátsinh gốc rễ của bịnh. Vin níu vào cái gì? Đó là ba cõi. Thế nào là cắt đứt[41]sự vin níu? Bằng vô sở đắc. Nếu là vô sở đắc, thì không có sự vin níu. Cái gìlà vô sở đắc? Là rời xa hai kiến. Hai kiến là gì? Nội kiến, và ngoại kiến. Đólà vô sở đắc.[42]

«Văn-thù-sư-lợi,đó là cách Bồ tát đang bịnh chế ngự tâm mình. Vì để cắt đứt cái khổ già, bịnh,chết, là bồ-đề của Bồ tát. Không làm được điều này thì sự tu trì của ông khôngcó sự sắc bén của tuệ.[43] Cũng như, thắng kẻ địch mới gọi là dũng; cũng vậy,dứt trừ cùng lúc già, bịnh, chết, ấy mới là Bồ tát.

«Bồ tát đangbịnh lại nên suy ngẫm: ‹Bịnh ta không thực cũng không tự hữu. Bịnh của hết thảychúng sinh cũng không thực và không tự hữu.› Nhưng khi quán như vậy, đối vớicác chúng sinh mà khởi đại bi từ ái kiến,[44] thì nên xả ly ngay. Vì sao vậy?Vì Bồ tát đoạn trừ khách trần phiền não[45] mà khởi đại bi. Bi do ái kiến tứclà có tâm mệt mỏi nhàm chán sinh tử. Xả ly được điều đó mới không có sự mệt mỏichán chường, để dù tái sinh ở đâu cũng không còn bị ái kiến che lấp. Tái sinh ởđâu, đều không bị trói buộc để có thể giảng Pháp và cởi trói cho hết thảy chúngsinh. Như đức Phật đã nói: ‹Không thể có việc tự mình bị trói mà có thể cởitrói cho người. Chỉ khi tự mình không bị trói, khi ấy mới có thể cởi trói chongười.›

«Cho nên, Bồtát chớ tự trói buộc mình. Thế nào là trói buộc? Thế nào là cởi mở? Tham đắm vịngọt của thiền là trói buộc của Bồ tát. Bằng phương tiện mà tái sinh,[46] đó làBồ tát cởi trói. Lại nữa, không có phương tiện huệ[47] là trói buộc; có phươngtiện huệ là cởi trói. Không có huệ phương tiện[48] là trói buộc; có huệ phươngtiện là cởi trói.

«Không cóphương tiện huệ[49] là trói buộc, nghĩa là thế nào ? Đó là với tâm ái kiến màBồ tát trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sinh; tự điều phục mình trongpháp không, vô tướng và vô tác.[50] Như vậy gọi không có phương tiện huệ làtrói buộc.

«Có phươngtiện huệ là cởi trói, là nghĩa thế nào? Đó là không đem tâm ái kiến mà trangnghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sinh; tự điều phục mình trong pháp không, vôtướng và vô tác mà không mệt mỏi chán chường. Đó gọi là có phương tiện huệ làcỏi trói.

«Không có tuệphương tiện là trói buộc, là nghĩa thế nào? Bồ tát trụ tham dục, sân nhuế, tàkiến, các thứ phiền não, mà vun trồng gốc rễ các công đức. Đó gọi là không cótuệ phương tiện là trói buộc.

«Có tuệphương tiện là cởi trói, là nghĩa thế nào? Bồ tát đã xa lìa tham dục, sân nhuế,tà kiến, các thứ phiền não, mà vun trồng gốc rễ các công đức, rồi hồi hướng đếna-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề. Đó gọi là có tuệ phương tiện là cởi trói.

«Văn-thù-sư-lợi,Bồ tát bệnh nên quán các pháp như vậy. Rồi lại quán thêm nữa. Quán thân này[51]vô thường, khổ, không, phi ngã; đó gọi là tuệ. Mà dù thân đang bệnh ông vẫn ởlại cõi sinh tử vì lợi ích của chúng sinh, không thấy mệt mỏi; đó gọi là phươngtiện.

«Rồi lại quánthân. Thân không lìa bịnh, bệnh không lìa thân. Ấy là bệnh, ấy cũng là thân;không phải mới, không phải cũ. Đó gọi là tuệ.[52] Giả sử thân mang bệnh, màkhông cần dứt trừ nó vĩnh viễn. Đó gọi là phương tiện.

«Văn-thù-sư-lợi,Bồ tát bệnh nên chế ngự tâm mình như vậy. Không trụ trong đó; cũng không trụnơi tâm không được chế ngự. Vì sao vậy? Vì trụ ở tâm không được chế ngự, làpháp của người ngu. Nếu trụ nơi tâm đã được chế ngự, đó là pháp của Thanh văn.Vì vậy Bồ tát chẳng trụ ở tâm được chế ngự hay không được chế ngự. Xa lìa cảhai; đó là hành của Bồ tát. Khi ở sinh tử vẫn không hành ô uế;[53] trụ nơiNiết-bàn mà không vĩnh viễn diệt độ; đó là hành của Bồ tát. Không theo hạnhphàm phu cũng không phải hạnh Hiền Thánh; đó là hành của Bồ tát. Hạnh không nhơcũng không tịnh; đó là hành của Bồ tát. Dù siêu quá hành của Ma, vẫn thị hiệnđể khuất phục bầy Ma;[54] đó là hành của Bồ tát. Cầu nhất thiết trí [55] nhưngkhông cầu phi thời;[56] đó là hành của Bồ tát.[57] Tuy quán các pháp bất sanh,vẫn không vào chánh vị;[58] đó là Bồ tát hạnh. Dù quán mười hai duyên khởi, vẫnhội nhập mọi tà kiến;[59] đó là hành của Bồ tát. Dù che chở hết thảy chúngsinh, vẫn không hệ luỵ bởi ái; đó là hành của Bồ tát. Tuy vui với sự viễnly,[60] mà không y tựa vào sự diệt tận của thân và tâm; đó là hành của Bồ tát.Dù đi qua ba cõi vẫn không hư hoại pháp tánh;[61] đó là hành của Bồ tát. Dùhành nơi Không, vẫn gieo trồng mọi công đức; đó là hành của Bồ tát. Tuy hành vôtướng vẫn cứu độ chúng sinh; đó là hành của Bồ tát. Tuy hành vô tác vẫn thịhiện thọ thân;[62] đó là hành của Bồ tát. Tuy hành vô khởi[63] vẫn khởi làm cáchạnh thiện; đó là hành của Bồ tát. Tuy hành trì sáu hạnh Ba-la-mật vẫn biến tritâm và tâm sở pháp của chúng sinh;[64] đó là hành của Bồ tát. Tuy hành sáu thầnthông mà không đoạn tận các lậu; đó là Bồ tát hạnh. Dù hành bốn vô lượng tâm,vẫn không tham đắm cầu tái sinh cung trời Phạm thiên;[65] đó là hành của Bồtát. Dù hành trì thiền định, giải thoát và tam muội, mà không tùy thiền mà táisinh;[66] đó là hành của Bồ tát. Dù hành trì bốn niệm xứ, mà không hoàn toànrốt ráo xa lìa thân, thọ, tâm, pháp; đó là hành của Bồ tát. Tuy hành trì bốnchánh cần mà không xả thân tâm tinh tấn;[67] đó là hành của Bồ tát. Tuy hànhtrì bốn như ý túc, mà đạt tự tại thần thông; đó là hành của Bồ tát. Tuy hànhnăm căn mà phân biệt căn tánh nhạy bén hay trì độn của hết thảy chúng sinh; đólà hành của Bồ tát. Tuy hành năm lực vẫn phấn đấu thành tựu mười lực, vô úy củaPhật; đó là hành của Bồ tát. Tuy hành bảy giác phần mà phân biệt trí tuệ củaPhật;[68] đó là hành của Bồ tát. Dù hành tám chánh đạo vẫn thích đi trên Phậtđạo vô biên; đó là Bồ tát hạnh. Dù hành pháp trợ đạo Chỉ và Quán mà rốt ráokhông rơi vào tịch diệt; đó là hành của Bồ tát. Dù hành các pháp bất sinh bấtdiệt vẫn trang điểm tự thân bằng các tướng hảo; đó là hành của Bồ tát. Dù thịhiện oai nghi của Thanh-văn hay Phật Duyên-giác vẫn không xả pháp của Phật;[69]đó là Bồ tát hạnh. Tuy tùy theo tướng tịnh rốt ráo của hết thảy pháp mà vẫn tùychỗ thích hợp thị hiện tự thân; đó là hành của Bồ tát. Dù nhìn thấu hết thảycõi Phật luôn tĩnh lặng như hư không,[70] vẫn làm hiển hiện các loại cõi Phật thanhtịnh; đó là hành của Bồ tát. Dù đã đạt quả vị Phật, có thể chuyển Pháp luân, vàvào Niết-bàn, vẫn không từ bỏ Bồ tát đạo; đó là hành của Bồ tát.»

Duy-ma-cậtgiảng xong pháp này,[71] hết thảy tám ngàn chư thiên đi theo Văn-thù-sư-lợi đềuphát tâm cầu giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác .

[1] DMC(T14n0475_p0544a25). VCX (T14n0476, p0567b24), phẩm thứ 5, «Vấn tật 問疾品第五.»

[2]Văn-thù-sư-lợi 文殊師利. VCX: Diệu CátTường 妙吉祥. Skt. Mañjuśrī.

[3] BảnLa-thập nhảy một đoạn, VCX: “

[4] VCS: xảotiện vô ngại 巧便無礙, vận dụng phưong tiệnkhéo léo thông suốt. Tiếp theo, bản La-thập nhảy một đoạn; VCX (Đại 14,tr.567c1): «Đã đạt đến pháp giới tối thắng không hai, không tạp; sở hành đã rốtráo đến bờ bên kia; diễn thuyết pháp môn được trang nghiêm bằng vô hạn yếutính; thấu triệt căn tính và hành vi của tất cả chúng sinh; khéo léo sử dụngthần thông tối thắng của sự du hý; đạt đến mức hoàn hảo phương tiện thiện xảocủa đại trí tuệ; hoàn toàn tự tại vô ngại vô uý để quyết trạch mọi vấn đáp; cáchạng thấp kém không thể đối đàu với nũi nhọn ngôn từ biêện luận của ông ấy.»

[5] VCX cònthêm: «Không nghe mà nghe.»

[6] Cf.Madhyamaka ii. 1: gataṃ na gamyate tavād agataṃ vaiva gamyate/ gatāgatavinirmuktaṃ gamyamānaṃ na gamyate. «Cái đãđi không đi. Cái chưa đi cũng không đi. Ngoài cái đã đi và chưa đi, cái đang đikhông đi.»

[7] VCX:«Không phải do cái đã đến mà có khái niệm về sự đến. Không phải do cái đã đi màcó khái niệm về sự đi.» Khuy Cơ, VCS (T38n1782_p1069c24) lưu ý: «Chỗ này, bảnLa-thập và bản Huyền Trang không giống nhau.»

[8] Hán: trívấn vô lượng 致問無量 . VCS: «Lời nhắn gởithì ngắn gọn; nhưng thâm ý hỏi thăm thì vô lượng.»

[9] VCX:«Cũng như vô minh (avidyā) và hữu ái (bhavatṛṣṇa) của các chúng sinh sinh khởi đã từ lâu đời;bệnh của tôi cũng phát từ lâu như vậy.»

[10] VCS, Đại38, tr.1070b22, «Hỏi thất không, là hỏi về pháp không. Hỏi thị giả không, làhỏi về nhân không.»

[11] CDM, Đại38, tr. 372c11, «Thập nói, căn nhà do không có vật gì cả nên trống không. CõiPhật do bởi lý gì ma không?»

[12] CDM,«Thập nói, không có (vô 無, Skt. abhava) vìkhông có vật gì. Rỗng không (không 空, Skt. śūnya), vì quốcđộ tính không. Triệu nói, không đầu là trí không (jñānaśūnyatā, cf.Madhyānta-vibhāga); không sau là pháp không (dharmaśūnyatā).»

[13] DMC: hàdụng không 何用空 . VCX: vi thị thùykhông 為是誰空 , là cái không của ai (= của cái gì).»

[14] VCX:«Không này là Không của vô phân biệt.»

[15] VCX:Không tính 空性.

[16] TrườngA-hàm 14, kinh 21. Phạm động, Đại 1, tr. 89c23. Cf. Pali, Brahmajāla-sutta,D.i. tr. 44.

[17] VCX: bấtyếm khí 不厭棄, không ghét bỏ.

[18] VCX: vôsắc tướng 無色相.

[19] DMC:thân hiệp 身合, tâm hiệp 心合. VCX: thân tương ưng 身相應, tâm tương ưng 心相應.

[20] VCX: tâmnhư huyễn hoá 如幻化 .

[21] Tứđại 四大, Skt. catvārimahābhūāni. VCX: tứ giới 四界. Skt. dhātavaścatvāri.

[22] Trongbản dịch Huyền Trang thì ngược lại: Duy-ma-cật hỏi Văn-thù. Khuy Cơ (Đại 38,tr.1071c21) cho rằng, xét theo ý nghĩa, La-thập đã dịch không đúng. Triệu nói(Đại 38, tr.374c9), theo lẽ thì Duy-ma-cật hỏi. Nhưng để khiến những vị hiệndiện chú tâm, và để chính người bệnh tự nói, nêu rõ ý nghìa vô chứng của Đạithừa.

[23] DMC:giáo đạo chúng sinh 教導眾生. VCX: thành thục hữutình 成熟有情

[24] VCX :««Không nói tội có di chuyển.» VCS: «Tội được làm trong hiện tại di chuyển vàoquá khứ. Quá khứ có thực thể dẫn đến sự cảm quả trong tương lai.»

[25] Tịnhmạng 淨命; Thập nói: tức làchánh mạng.

[26] DMA:tiền thế 前世 (Skt. pūrva-nivāsa);VCX: tiền tế 前際 (pūrva-koṭi). Toàn đoạn,VCX:«Sinh từ nghiệp được thúc đẩy bởi các phiền não của phân biệt vọng tưởng vàđiên đảo.»

[27] DMC:trước ngã 著我; VCX: chấp ngã 執我. Skt. ātmagrāha.

[28] VCX:«Không nên ở trong thân này mà vọng tưởng sinh ra chấp ngã.»

[29] DMC: ngãtưởng , chúng sinh tưởng . 我想眾生想, khái niệm về một tựngã hay linh hồn (ātma-saṃjñā), khái niệm về một chúng sinh hay một hiện tồn thể(sattvā-saṃjñā). VCX: hữu tìnhngã tưởng 有情我想. Cf., Vajracchedika,bốn khái niệm về ngã: ātma-saṃjñā (ngã tưởng), sattvā-saṃjñā (chúng sinh tưởng), jīva-saṃjñā (thọ tưởng),pudgala-saṃjñā (nhân tưởng).

[30] DMC:đương khởi pháp tưởng 當起法想. CDM: «Triệu nói, đểtrừ ngã tưởng mà khởi lên pháp này.» VCX: an trụ pháp tưởng 安住法想 . khái niệm về pháp an trụ hay thường trụ. VCX: «An trụ nơipháp tướng mà quán pháp do nhân duyên để phá trừ ngã chấp.» (= Skt. dharma-saṃjñā pratiṣṭhitavyā).

[31] VCX: «Taphải nên trừ diệt nó và cũng tức là trừ diệt hết thảy tai hoạn như vậy của hữutình.»

[32] Pháp hai二法 ; chỉ pháp có tính nhị nguyên đối đãi, hai mặt đối lập.Skt. dvaita-dharma. VCS: «Pháp hai tức là pháp mà nội tại và ngoại tại đềutuyệt đối không hiện hành.» Xem phẩm 9, «Pháp môn bất nhị.»

[33] VCS:«Quán sự bình đẳng, không di động, không dao động, không có cái được quan sát.»

[34] DMC:hành tâm bình đẳng 行心平等 , Triệu nói, «thểhiện sự bình đẳng của tâm.» VCX: quán bình đẳng… VCS(T38n1782, tr.1073a24 ):«quán sự bình đẳng của pháp, không động dao…»

[35] VCX:«ngã và Niết-bàn, cả hai đều bình đẳng.»

[36] VCX:«Hai pháp này đã không tồn tại, thì còn pháp nào khác hơn nữa là không? Ấy làchỉ bằng vào quy ước của ngôn ngữ (danh tự giả thuyết) mà nói là không.»

[37] CDM:Thập nói, thọ đây chỉ ba thọ: khổ, lạc và xả.

[38] DMC:điều phục 調伏 . VCX: trừ…tật 除疾 .

[39] VCX:«Khi điều trị cho mình và cho người, không thấy có một cái gì gọi là được điềutrị.»

[40] DMC: hữuphan duyên 有 攀緣. VCX: hữu duyên lự 有 緣慮. Skt. sālambhana, cái luôn luôn cần điểm tựa để hiện hành; cáikhông bao giờ rời khỏi điểm tựa. VCS (T38n1782, tr.1073c29): «Duyên lự, là tâm,tâm sở có tính phân biệt, thuộc hữu lậu.»

[41] DMC: đoạn 斷. VCX: ưng tri. Skt. parijñātavya 應知 , cần biến tri (=cần triệt để đoạn trừ).

[42] VCX: Nếukhông có hai kiến, đó là không có gì sở đắc.

[43] DMC: vôtuệ lợi 無慧利. VCX: hư khí, bỏ côngvô ích 虛棄.

[44] CDM:«Khởi ái kiến đại bi…, Triệu nói: (…) Nếu quán ấy chưa thuần, thấy chúng sinhmà thương yêu, rồi từ đó mà khởi tâm đại bi.» VCX: «Với tâm bị quấn chặt bởi áivà kiến ấy mà khởi tâm đại bi đối với chúng sinh.»

[45] Bụi nhưngười khách chợt đến. (Skt. āgantuka). CDM (Đại 38, tr.378b09): «Triệu nói, tâmgặp ngoại duyên, phiền não chợt dấy lên, cho nên nói là khách trần.»

[46] VCX:«Bằng phương tiện thiện xảo mà tái sinh trong các hiện hữu, hoàn toàn không cótham đắm.»

[47] Phươngtiện tuệ 方便慧, (Skt. upāya-jñāna,tuệ của phương tiện, hay tuệ do bởi phương tiện). VCX: phương tiện thiện nhiếpdiệu tuệ 方便善攝妙慧 tuệ siêu việt đượcthể hiện khéo léo bằng phương tiện (upāya-saṃgrīha-jñāna).

[48] Tuệphương tiện 慧方便. (Skt. jñānopāya,phương tiện của trí tuệ hay do bởi trí tuệ).

[49] CDM (Đại38, tr.378c26): «Thập nói, quán không mà không thủ; lội hữu mà không dính; đólà xảo phương tiện… Trong đây chỉ lấy sự lội hữu không dính làm phương tiện,nên nói rằng có tuệ mà không có phương tiện. Từ trụ thứ bảy trở lên, tâm thườngđịnh, động và tĩnh không khác, cho nên nói là phương tiện tuệ.»

[50] VCX: «Tựđiều phục bằng… nhưng không trang điểm thân bằng các tướng hảo… cho nên, khôngcó phương tiện…»

[51] VCX:«Quán thân cùng với bịnh đều là vô thường…»

[52] VCX:«Thân, tâm và các thứ tật bệnh, lệ thuộc lẫn nhau, lưu chuyển từ vô thuỷ, sinhdiệt không gián đoạn, không phải mới, không phải cũ. Đó gọi là tuệ.»

[53] VCX: «Ởnơi sở hành quán sát sinh tử, mà không có sở hành của hết thảy phiền não.»

[54] VCX: «Ởnơi sở hành của bốn thứ Ma mà siêu việt sở hành của hết thảy Ma.» Bốn Ma: uẩnma, phiền não ma, tử ma, thiên ma.

[55] Nhấtthiết trí 一切智. VCX: nhất thiết trítrí . Skt. sarvajñā-jñāna, trí tuệ của nhận thức toàn diện. Trí của nhất thiếttrí, trí tuyệt đối cá biệt do Phật tự chứng.

[56] Phi thờicầu 非時求. CDM (Đại 38,tr.380a20): «Thập nói, công hành chưa đủ mà cầu cho được kết quả đầy đủ, gọi làphi thời cầu.» VCX: «Cầu sở hành của trí nhất thiết trí, nhưng không phải là sởhành của chứng trí phi thời.» VCS (T38n1782_p1076a5): «Bồ tát chứng trí, bênngoài thích ứng vời mọi cơ duyên để có thể cứu vớt chúng sinh, nên nói là khôngphải phi thời.»

[57] Nhảy mộtđoạn trong bản La-thập; VCX: «Tuy sở hành diệu trí của bốn Thấnh đế, nhưngkhông phi thời chứng nghiệm Thánh đế; đó là sở hành của Bồ tát. Chánh quán sátsở hành nội chứng, mà vẫn nhiếp thọ sở hành sinh tử; đó là sở hành của Bồ tát.»

[58] VCX:«Chánh quán sát sở hành vô sinh, mà không rời vào sở hành của Thanh văn Chánhtính.» Chánh vị, hay chánh tính (Skt. samyaktva), Câu-xá 10 (Đại 29 tr. 56c12):«Tham hoàn toàn đoạn trừ; sân…si… hết thảy phiền não hoàn toàn đoạn trừ; đó gọilà chánh tính.» Chỉ giai đoạn chuyển tiếp từ phàm phu bước sang địa vị Thánhgiả.

[59] La-thập(T 38, tr.0380a27): «Quán duyên khởi là con đường đoạn trừ tà kiến. Nhưng cóthể ngược lại mà đồng với tà kiến.» Trái nghĩa với VCX: «Tuy hành tất cả sởhành của duyên khởi, mà có thể xa lánh sở hành của mọi xu hướng kiến chấp.»Khuy Cơ giải (T38n1782_p1076a17): «Bồ tát hiện duyên khởi mà xa lìa xu hướngkiến chấp. Hiện duyên khởi, tức hiện sinh tử.»

[60] CDM:«Triệu nói, viễn ly nhỏ thì xa lìa chỗ náo nhiệt. Viễn ly lớn thì dứt hẵn thântâm.»

[61] VCX:«Không hoại loạn pháp giới.»

[62] VCX:«Tuy hay quán sát sở hành vô nguyện mà vẫn có thể thị hiện sở hành của các cõiHữu.»

[63] VCX: «Tuyrảo bước nơi sở hành vô tác…» Khuy Cơ: «Vô tác, không có gì được tạo tác.»

[64] VCX: «…mà không hướng đến sở hành bờ bên kia của tâm hành diệu trí của hết thảy chúngsinh…»

[65] Bốn vôlương tâm ở đây chỉ bốn Phạm trụ (Brahma-vihāra). chứng Sơ thiền, tái sinh vàothế giới Phạm thiên (Brahma-loka).

[66] VCX:«Không tái sinh theo thế lực của các Thiền.»

[67] VCX:«…mà không thấy tồn tại hai sở hành của thiện và bất thiện.»

[68] VCX:«…màkhông mong cầu diệu trí thiện xảo của Phật pháp sai biệt.»

[69] VCX:« …mà không dẹp bỏ sở hành duyên lự của hết thảy Phật pháp.»

[70] VCX:«…cõi Phật, mà tự tính là không, tịch diệt, không thành không hoại, như hưkhông…»

[71] VCX: «…sở hành hy hữu sự của hết thảy Bồ tát…»

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567