Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thị Hiện Đản sanh

11/05/201105:02(Xem: 4583)
Thị Hiện Đản sanh

 Phat Dan Sanh 28

Trong cái nhìn tương quan đối đãi, cuộc sống hiện sinh chỉ là chuỗi ngày dài đầy khổ lụy. Có sự đau khổ ấy là vì chúng ta chấp lấy huyễn cảnh vô thường, cái không thật có cho là bền vững, và duy trì bản chất của tham ái, vô minh. Sự đảo điên của kiếp người cứ mãi xoay vần như vậy cho đến khi đuối sức, gục ngã lăn tròn trên con đường vô định. Kiếp này tương tác lên kiếp kia tạo ra một chuỗi tương tục trầm luân. Cái khổ này chồng chất lên cái khổ kia như con lạc đà chở vật nặng, sức nặng càng trở nên nặng nề hơn khi đi trong sa mạc hoang vắng nơi mà kiếp sống của nó được định hình trên nấm mồ cát trắng; cũng vậy, kiến chấp về cuộc đời của chúng ta ngày một sâu dày hơn.

Trong Khế kinh đức Phật dạy “Toàn thể thế giới đang bốc cháy. Toàn thể vũ trụ đắm chìm trong khói lửa, toàn thể vũ trụ làm mồi cho lửa, toàn thể vũ trụ run lập cập”. Lời dạy này mở ra một nhận thức mới về cuộc đời và thiết lập nên một lộ trình tu tập cần thiết cho sự thể nghiệm tâm linh. Đó là nhận thức về một thế giới bất an và con đường tu tập để viễn ly ra khỏi thế giới bất an đó, nghĩa là chúng ta phải thực hành theo con đường Phật dạy, ứng dụng giáo lý vào trong cuộc sống của mình. Thế cho nên, khi trình bày cuộc đời đức Phật là chúng ta đang nghĩ về một con người siêu việt mà chân lý của vị ấy luôn vận hành tương tức với đời sống tâm linh, một quá trình hành đạo thực chứng nội tâm.

Cách đây 2632 năm, từ cung trời Đâu Suất, với bi nguyện độ sanh, Bồ-tát Hộ Minh đã thị hiện trần gian, sanh ra trong dòng họ Sakya, nước Ca-tỳ-la-vệ ở Ấn Độ. Ngài đản sanh trong giai đoạn lịch sử xã hội Ấn Độ phân tầng khắc nghiệt. Xã hội đã chế định nên những quy luật quá khắt khe với con người, tạo ra bao nhiêu bất công, áp bức, bóc lột, biến con người vốn đã nô lệ lại càng trở nên nô lệ tồi tệ hơn. Con người mất đi quyền sống, quyền được làm người. Trong sự chờ mong bi thương tuyệt vọng đó, đức Thế Tôn xuất hiện. Sự xuất hiện của Ngài được xem như là vị cứu tinh cho những người dân Ấn Độ nói riêng, và là vị Đại Cứu Tinh cho toàn nhân loại nói chung. Sự xuất hiện của Ngài báo hiệu suối nguồn tuệ giác rồi đây sẽ mở ra, con đường thực nghiệm tâm linh, đạt đến Thánh quả cho bất cứ ai đi trên con đường ấy rồi đây cũng sẽ thành tựu. Bóng tối của vô minh sẽ bị đẩy lùi bởi tuệ giác vô thượng của Ngài và con đường hướng đến Thánh quả của các đệ tử Ngài sẽ được nở rộ ở thế gian này. Vì thế, ngay sau khi xuất hiện, Ngài được xem như là sư tử vương ra khỏi hang khiến các loài thú phải khiếp sợ, cũng như giáo pháp của Ngài rồi đây sẽ phủ trùm trên tất cả học thuyết. Ngài còn được xem như là nhật nguyệt bừng tỏa xua tan đi bóng tối âm u đã phủ trùm vô số kiếp lên cuộc sống của chúng sanh, để rồi ánh sáng ấy làm hiển lộ vẻ đẹp rực rỡ của buổi bình minh tươi vui và hạnh phúc, hàng phục những tà thuyết đem lại sự đau khổ cho cuộc đời.

Như vậy, sự xuất hiện của đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã mở ra một cuộc cách mạng mới. Cuộc cách mạng ấy khai triển tự tính duyên sinh, giúp cho những ai đang còn chìm đắm trong vũng bùn sanh tử, bằng đời sống tư duy vô chấp liễu ngộ thực tại tánh, sớm ly tham, ly sân, ly si ngay ở cõi đời này. Ngài ra đời vì một lý do duy nhất là đáp ứng nguyện vọng thâm sâu thầm kín đó của con người, đem tình thương hóa giải những đau khổ trong tâm tư con người; lấy bình đẳng để san bằng những bất công của xã hội, khai ngộ tuệ giác cho mọi chúng sanh như trong kinh Pháp Hoa tuyên thuyết “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”. Chính sự hiện thân từ lúc nhập thai, đản sanh, thành đạo cho đến giây phút trước khi nhập niết-bàn ấy của Ngài đã diễn thuyết bài pháp vô ngôn. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói cho đến sự im lặng của Ngài cũng là những bài học mang lại nhiều giá trị cho cuộc sống nhân sinh.

Những bài pháp ấy cho đến ngày nay và mai sau vẫn luôn là nền tảng tư tưởng căn bản cho mọi thời đại, cho mọi học thuyết đang tìm kiếm giải pháp để xây dựng một thế giới hòa bình, một quốc gia an lạc. Chúng được chuyển thành những pháp hành thẩm thấu trong đời sống tu tập của mỗi người. Không kể sang hèn, không kể vua chúa hay kẻ bần cùng, nếu người nào biết thực tập chuyển hóa thì người ấy có hạnh phúc, có an lạc. Người nào sống trọn vẹn tinh thần mà đức Phật đã chỉ dạy thì người đó gọi là Phật tử. Đức Phật là hiện thân của giác ngộ nên đạo Phật gọi là đạo giác ngộ. Vì không hiểu rõ về vấn đề này, nên nhiều người lầm lẫn cho rằng, đức Phật chúng ta là một nhà tôn giáo. Ngài cũng chỉ như những vị thần của những tôn giáo khác với những huyền thoại khó tin, khó chấp nhận mà lịch sử đã tô vẽ vị giáo chủ của mình. Ngài không đứng trên lập trường như vậy “Ta không phải là Thượng đế, cũng không phải là thần thánh, cũng không phải là con người, mà Ta là Phật.” Điều đó đã minh chứng phần nào về con người và sự xuất hiện của Ngài. Do đó, chúng ta không thể nói đức Phật lịch sử là con người bình thường như những người xưa nay từng quan niệm bởi vì nếu ai cũng nhìn như vậy thì tôn giáo không còn là tôn giáo nữa. Tôn giáo có một cái nhìn và cách lý giải riêng của tôn giáo, cũng như khoa học có cái nhìn và cách lý giải riêng của khoa học. Khoa học chỉ có thể giải thích một khía cạnh nào đó của tôn giáo có thể cho là đúng mà thôi, chứ khoa học không thể giải thích toàn bộ những điều mà tôn giáo đang đề cập. Theo Phật giáo, muốn có một nhận định đúng về cuộc đời của đức Phật, chúng ta phải đặt cái nhìn trong phạm trù tương quan duyên khởi, “cái này có cái kia có, cái này không cái kia không; cái này sanh cái kia sanh, cái này diệt cái kia diệt”. Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược. Sự đản sanh của Ngài là sự đản sanh trong sự trú tâm an tịnh, hướng tâm nguyện độ sanh đem lại an vui cho mọi người.

Trong kinh Trung bộ III, số 123, kinh Vị Tằng Hữu, đức Phật dạy: “Ngài không được sinh ra từ nơi bất tịnh, lớn lên trong đau khổ và chết dần trong đau khổ.”
Còn kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập pháp giới đã trình bày: “Lúc Ma-da phu nhơn sắp đản sanh Bồ-tát, ở trước mặt phu nhơn bỗng từ kim cang tế mọc lên hoa sen lớn tên là nhất thiết bửu trang nghiêm tạng. Kim-cang làm cọng, các báu làm tua, Như ý châu vương làm đài, có Phật sát vi trần số cánh. Tất cả đều bằng châu Ma-ni, lưới báu lọng báu đều che phía trên. Tất cả thiên vương cầm giữ, tất cả long vương mưa hương vũ, tất cả Dạ-xoa vương cung kính rải thiên hoa. Tất cả Càn-thát-bà vương dùng âm thanh vi diệu ca ngợi công đức của Bồ-tát thuở xưa cúng dường chư Phật. Tất cả Tu-la vương bỏ tâm kiêu mạn mà cúi đầu đảnh lễ. Tất cả Ca-lâu-la vương thòng phan báu khắp hư không. Tất cả Khẩn-na-la vương hoan hỷ chiêm ngưỡng ca ngâm khen ngợi công đức của Bồ-tát. Tất cả Ma-hầu-la vương đều hoan hỷ tán thán rải mây báu trang nghiêm cúng dường. Đây là thần biến thứ mười của Bồ-tát sắp đản sanh.
Này thiện nam tử! Vườn Lâm-tì-ni thị hiện mười thần biến như vậy rồi, sau đó Bồ-tát đản sanh như mặt nhật hiện nơi hư không, như mây lành hiện ở đỉnh núi cao, như làn chớp sáng giữa cụm mây dày, như ngọn đuốc sáng giữa đêm tối. Bấy giờ Bồ-tát từ hông bên hữu của phu nhơn mà đản sanh, thân tướng quang minh, đủ các tướng hảo.

Này thiện nam tử! Lúc đó dù hiện sơ sanh nhưng Bồ-tát đã tỏ thấu tất cả pháp như mộng, như huyễn, như ảnh, như tượng, không đến, không đi, chẳng sanh, chẳng diệt.”
Sự đản sanh của một vị Phật không thể hiểu và giải thích như sự sanh ra của những con người bình thường. Vì chúng sanh mê muội đầu thai rồi mê muội ra đời, còn sự ra đời của đức Phật chính là sự ra đời của một bậc Phước trí song toàn, theo bi nguyện thị hiện độ sanh. Sự đản sanh của Ngài trong cuộc đời này là muốn thể hiện rõ ràng hơn chân lý của cuộc đời xưa nay vẫn như vậy, “Pháp nhĩ như thị”, “dù Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện thì pháp tánh ấy vẫn như vậy”. Pháp ấy là cội nguồn của chân lý, là sự thật, là một nơi không có dáng dấp của khổ đau hay bất hạnh, không có sự phân chia giai cấp sang hèn, “tất cả sinh ra trong dòng máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng mặn”, cho nên ai cũng bình đẳng và có thể thành Phật “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” như Ngài. Những huyền thoại ghi chép đã lưu dấu lại cho đời những thâm ý mầu nhiệm. Mỗi biểu hiện là mỗi bài pháp quý giá như “Voi trắng sáu ngà” khi vào thai mẹ với giáo lý lục độ Ba-la-mật, vừa “sanh ra biết đi” đã phá tan những tập tục cổ hữu đương thời của Ấn Độ, “Bảy bước đi” với thất thánh tài, hay câu nói bất di bất dịch “trên trời dưới trời chỉ có chân lý là tối thượng”, v.v…

Phủ phục trước ánh sáng của trí tuệ và lòng từ bi bao la của đức Phật, học giả Radha Krishman đã viết: “Nơi đức Phật Cù đàm, ta nhận thấy một tinh hoa toàn diện của người phương Đông. Ảnh hưởng của ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hi hữu, cho đến nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch sử. Mọi người đều sùng kính tôn ngài là người đã dựng lên một hệ thống tôn giáo vô cùng thâm sâu huyền diệu, ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí, bởi vì đứng về phương diện trí thức, đạo đức trang nghiêm và tinh thần minh mẫn chắc chắn ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử.”

Cuộc đời của Ngài có nhiều giải thích khác nhau. Mục đích chung trong việc dùng ngôn từ để diễn đạt cũng chỉ làm cho mọi người rõ thêm về sự thị hiện của Ngài, và chính là làm sao đạt được sự giải thoát ngay trong hiện tại cho chính mình. Đức Phật cũng đã từng dạy: “Ta chỉ là bậc đạo sư chỉ đường”, để nói lên thể tính trong sáng nơi mỗi người, nhằm khích lệ con người không nên ỷ y nơi ngài mà hãy bằng nỗ lực tự thân vươn lên trong khả tính thực chứng của mình. Tất cả những gì Ngài còn để lại ở cuộc đời không được xây dựng trên tính cố hữu ràng buộc bắt buộc mọi người phải tuân theo, nhưng để đạt được hạnh phúc an lạc thực sự thì phải đi theo lộ trình tự chứng mà Ngài đã trải qua. Chính điểm này chúng ta thấy, sự thị hiện đản sanh của Ngài đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên ấy được duy trì và tồn tại đích thực trong hiện quán của trí tuệ và từ bi. Chỉ khi nào trí tuệ và từ bi luôn được vận dụng trong đời sống, thì cuộc đời sẽ có một sự chuyển đổi, có sự thăng hoa tâm linh, còn không thì nó mãi mãi vẫn đắm chìm trong chuỗi chấp thủ khổ đau và bất hạnh.■

Thích Khải Tâm

Nguồn: TS Pháp Luân 50

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2021(Xem: 3739)
Vào sáng ngày 30 tháng 5 năm 2012 (ngày 19 tháng 4 năm Tân Sửu), chùa Việt Nam - ngôi chùa lịch sử do Hòa thượng Thích Thiên Ân sáng lập vào năm 1975, là ngôi chùa Việt Nam đầu tiên ở Hoa Kỳ - tọa lạc tại số 857-871 S. Berendo Street, thành phố Los Angeles, tiểu bang California đã long trọng cử hành Đại lễ Phật Đản Phật lịch 2565. Quang lâm Chứng minh Đại lễ có Hòa thượng Thích Như Minh, Viện chủ chùa Việt Nam, chư Tăng chùa Việt Nam và chư Tăng thiền viện Phật giáo Quốc tế (International Buddhist Meditation Center). Đông đảo Phật tử, thiện tri thức, Gia đình Phật tử Long Hoa, Hội Ái hữu Viện Đại học Vạn Hạnh (Sài Gòn), nhạc sĩ, ca sĩ … ở nhiều thành phố hai miền Nam - Bắc tiểu bang California đã về chùa dự lễ. Đặc biệt có sự tham dự của Huynh trưởng Nguyên Tịnh Trần Tư Tín, Cố vấn và chỉ đạo Trung ương Gia đình Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ; Huynh trưởng Thiện Tánh Lý Văn Hùng, Liên Đoàn Trưởng Gia đình Phật tử Long Hoa chùa Việt Nam. Chương trình buổi lễ như sau: Thỉnh chuông
02/06/2021(Xem: 6301)
Lễ Phật Đản 2646 tại Chùa Giác Nhiên, Tân Tây Lan
30/05/2021(Xem: 3692)
Kính dâng Thầy bài thơ khi tâm trạng con như bao nhiêu người khác rất khó bình tĩnh khi bị lockdown vì còn bao điều chưa giải quyết được ! Nhất là khi một kiểng hai quê...Quả thật bây giờ con hết lạc quan như trước rồi và nguyện cầu cho thế giới sớm khắc phục được với nạn dịch nhờ vắc xin cung cấp đủ cho mọi người dân tại các quốc gia nhất là VN quê hương ta ! . Kính chúc sức khỏe Thầy , HH Cứ mỗi lần lockdown chắc ai cũng thiệt hại? Bao công trình dự án ... đình chỉ ngay Cắn răng kham nhẫn khó thể tỏ bày Bao người đồng cảnh ngộ ... gần hai năm trời dịch nạn !
30/05/2021(Xem: 4037)
Tuy được học, có vài nghiệm bản thân về nguyên lý Vô Thường, thế mà gần hai năm nay có những lần phong tỏa bất kỳ như sau mùng một Tết Tân Sửu và sau ngày 12 âm lịch tháng tư của Lễ Hội Vesak tại Melbourne lần này, .....vẫn làm tôi ngỡ ngàng bàng hoàng khi đón nhận ... Vì còn nhiều ngôi chùa thân thương đã chuẩn bị cho Lễ Hội Phật Đản 2645 vào cuối tuần (30/5/2021) cho những ai chưa có dịp tham dự lễ Tắm Phật do nhiều lý do hoàn cảnh nhưng đành phải đình chỉ .
29/05/2021(Xem: 6169)
Ngã kim quán mộc chư Như Lai 我今灌沐諸如來 Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ 淨智莊嚴功德聚 Ngũ trược chúng sanh lịnh ly cấu 五濁眾生令離垢 Đồng chứng Như Lai tịnh pháp thân. 同證如來淨法身。 Tỳ Gia thành lý bất tằng sinh 毘耶城裏不曾生 Sa La thọ gian bất tằng diệt 娑羅樹間不曾滅
29/05/2021(Xem: 3339)
Vào sáng ngày 23 tháng 5 năm 2021 (ngày 12 tháng 4 năm Tân Sửu), chùa Phổ Từ tọa lạc tại số 17327 Meekland Avenue, thành phố Haywarad, tiểu bang California đã tổ chức trang nghiêm Đại lễ Phật Đản Phật lịch 2565. Hòa thượng Thích Tịnh Diệu, Trú trì Tổ đình Giác Hải (Khánh Hòa, Việt Nam), Phó Viện trưởng Tu viện Kim Sơn, thành phố Watsonville quang lâm chứng minh, chủ lễ và ban đạo từ. Tham dự buổi lễ có Thượng tọa Thích Từ Lực, Viện chủ chùa Phổ Từ; quý Đại đức, Sư cô trú xứ tu viện Kim Sơn, chùa Phổ Từ, tu viện Hương Từ Bi, trung tâm tu học Phổ Trí cùng đông đảo Phật tử, huynh trưởng và đoàn sinh Gia đình Phật tử (GĐPT) Chánh Tâm, Chánh Đức, Chánh Hòa. Nhân ngày Đại lễ Phật Đản, chùa đã triển lãm hình ảnh hoạt động của Đạo tràng chùa Phổ Từ và 3 Gia đình Phật tử: Chánh Tâm, Chánh Đức, Chánh Hòa 20 năm qua.
24/05/2021(Xem: 4185)
Từ đầu tháng tư âm lịch của Phật lịch 2565 (2021) các nơi theo Phật Giáo đã nôn nao hân hoan chuẩn bị cho ngày lễ hội Khánh Đản của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dù đại dịch kinh hoàng nhất của thế kỷ 21 vẫn luôn đe dọa . Riêng tại Melbourne, nhờ vào tình trạng luật lệ ban hành đã được xuống cấp nên có nhiều thuận lợi cho các tự viện tổ chức và Phật tử có thể tham dụ lễ hội miễn là trong nhà và ngoài trời vẫn giữ khoảng cách an toàn nửa mét mỗi người, phải mang khẩu trang và khi vào cửa phải scan “check in barcode” hoặc ghi danh và số phone vào sổ ở bàn tiếp lễ (theo luật của tiểu bang Victoria). Do vậy Đại lễ Vesak lần thứ 2645 đã cử hành tại Ngôi chùa Tích Lan Sakyamuni Sambuddha Vihara vùng Berwick , thuộc Melbourne tiểu bang Victoria trước nhất và đã hoàn mỹ , rồi sau đó lần lượt vào những ngày cuối tuần của những tuần lễ sau ...các chùa tại Melbourne đã và sẽ tổ chức long trọng tại các tu viện trong các tiểu bang của Úc, nhưng .....có lẽ chỉ ngày cuối tuần mới có th
23/05/2021(Xem: 4049)
“Vesak”, ngày trăng tròn vào tháng năm, là ngày thiêng liêng nhất đối với hàng triệu người Phật tử trên khắp thế giới. Ngày Đại lễ Vesak cách đây hai thiên niên kỷ rưỡi (2500 năm), vào năm 623 trước công nguyên, Đức Phật đản sinh. Ngày Đại lễ Vesak cũng là ngày Đức Phật thành đạo, và là ngày vào năm tám mươi tuổi Đức Phật nhập Niết bàn. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, bằng nghị quyết số 54/115 năm 1999, đã công nhận ngày Đại lễ Vesak quốc tế để tỏ lòng biết ơn sự đóng góp mà Đạo Phật, một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, đã đồng hành hơn hai thiên niên kỷ rưỡi và tiếp tục thích hợp cho tinh thần nhân loại. Ngày Đại lễ này được tổ chức tưởng niệm hằng năm tại trụ sở chính LHQ (New York) và các trụ sở LHQ khác trên thế giới, được tham khảo ý kiến với các trụ sở LHQ các nơi có liên quan và với sứ mệnh thường xuyên cũng muốn được tham khảo.
22/05/2021(Xem: 3406)
Phật Đản lại về khắp thế gian, Trang nghiêm tháp lộng đẹp đàn tràng. Tỳ Ni thị hiện thương nhân loại, Lộc Uyển truyền trao giữ đạo vàng. Thông điệp nghìn năm luôn toả sáng, Tinh thần vạn cõi mãi dương quang. Nguyền nương giáo pháp… bền tâm lực, Tánh lặng nguồn chơn thoát buộc ràng…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]