Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phat_Dan_Sanh_nhat_ban
Ý Nghĩa Lễ Tắm Phật

Nguồn gốc của lễ tắm Phật bắt nguồn từ sự tích đức Phật đản sinh, Tương truyền khi Phật giáng sinh, có chín vị rồng tới phun nước tắm rửa cho Ngài. Cùng với nước là hương hoa do các vị trời rơi xuống làm thanh tịnh thân Phật. Về sau Ấn Độ, các tự viện thường hay để tượng một vị Phật sơ sinh, mỗi ngày tín đồ có thể tới viếng chùa và lấy nước rưới lên mình Phật như là một hành động tẩy trừ sự ô nhiễm nơi thân Phật, cũng như thân mình. Về sau không rõ đích xác nguyên do gì truyền thống này lần lần cải biến. Ở Trung Hoa, vào đời Đường, đời Tống, tắm Phật là một pháp hội rất lông trọng, mỗi năm được tổ chức một lần vào ngày Phật đản sinh. Nhất là ở Nhật Bản, vào khoảng năm 840, niên hiệu Thừa Hòa thứ bảy trở về sau, mỗi năm nhằm vào ngày tám tháng tư lễ tắm Phật được cử hành vô cùng trang nghiêm trong hoàng cung. Vì vậy, ở Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam, lễ Phật đản là một ngày vô cùng quan trọng được gọi là Phật Sinh Hội, Dục Phật Hội, Quán Phật Hội, đều là chỉ vào nghi thức tắm Phật cử hành trong ngày ấy. Lý do nghi thức tắm Phật được tín đồ Phật giáo tôn trọng và cung kính thực hành hàng năm vì nó là một phương pháp rất hay để người tu phản tỉnh. Phương pháp tắm Phật thì rất giản dị: bạn lên trước tượng vị Phật sơ sinh đặt giữa một bồn nước, thông thường là nước pha trộn bởi các vị hương thơm như nước thơm chiên đàn hương bạch đàn hương, uất đàn hương, long não, xạ hương, tử chiên đàn, đinh hương, v.v... Bạn quỳ xuống đảnh lễ ba lạy để bày tỏ lòng thành kính và khiêm cung đối với vị Phật sơ sinh. Bạn cũng có thể cúng dường hương hoa, phẩm vật, để bày tỏ lòng kính mộ của mình. Xong bạn dùng một cái muỗng múc nước hương thơm, từ từ rưới lên thân mình Phật ba lần. Mỗi khi tắm Phật như vậy, bạn cần quán tưởng rằng thân Phật cũng ví như là thân tâm của mình vậy. Ba muỗng nước rưới lên thân Phật, sẽ gội rửa ba nghiệp ác do thân, miệng và ý của mình tạo ra. Nếu nước hương thơm là thứ dùng để tắm thân Phật, thì Phật pháp là thứ mà bạn phải dùng để tẩy rửa cấu bẩn của hành động, suy nghĩ và lời nói. Nhưng điều tuyệt diệu là vị Phật sơ sinh trước kia được tắm, vốn là một em bé thanh tịnh vô nhiễm; sau khi tắm xong, bụi trần gội sạch, em bé đó trở về lại với sự vô nhiễm thanh tịnh sẵn có. Cũng vậy, hành động, lời nói và suy nghĩ của kẻ phàm chúng ta trãi qua bao kiếp, tích tập vô số thói hư tật xấu, tà kiến ác hạnh, ngu si chấp trước, khiến ta ở trong vòng mê mờ vẩn đục; song bản tánh xưa nay của chúng ta chưa hề bị ô nhiễm, hệt như vị Phật sơ sinh thanh tịnh vô cấu. Nếu dùng Phật Pháp như nước tẩy, tắm gội tam nghiệp, tức là nếu ta sửa đổi thói hư tật xấu, xả trừ chấp trước, minh tâm kiến tánh, thì ta sẽ khôi phục lại được thể tánh thanh tịnh sẵn có xưa nay. Bởi vậy điều then chốt trong lễ tắm Phật là ta phải hết sức thành tâm, tụ thần chú ý, tâm niệm sáng suốt, thì nghi thức tắm Phật sẽ là một phương tiện xảo thù thắng để ta tiêu trừ nghiệp chướng chấp trước. Để giúp cho sự tập trung chuyên nhất của thân khẩu ý, đồng thời biến sự tắm Phật thành sự tẩy trừ nghiệp chướng, chư Tổ khi xưa đã khuyên dạy ta đọc câu chú sau đây: Án, đi sa đi sa, xăng che, sô pô hô. Với câu chú này, nếu ta thành tâm tụng niệm sẽ làm tâm ta không khởi vọng tưởng, dẹp trừ phiền não, và do đó tự nhiên an tịnh siêu nhiên.

Bồ Đề Hải



Phat Dan Sanh


Ý NGHĨA
 CỦA NGHI LỄ TẮM PHẬT

HT. Thích Trí Quảng

Theo lịch sử ghi nhận thì Đức Phật đản sanh ở thành Ca Tỳ La Vệthành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràngthuyết pháp ở thành Ba La Nại và Ngài nhập diệt ở Câu Thi NaPhật giáo Nguyên thủy cũng xác định cuộc đời của Đức Phật như vậy.

Tuy nhiêntinh thần Phật giáo Đại thừa nhìn về Đức Phật không đơn giản như thế. Thật vậy, với tầm nhìn sâu sắc, Phật giáo Đại thừa không chỉ thấy Phật là con người trọn lành như lịch sử đã ghi nhận, mà còn triển khai tính cách siêu tuyệt của Đấng Đại Đạo Sư với quan niệm tam thân Phậtsanh thânBáo thân và Pháp thân. Ngoài sanh thân như bao nhiêu người trên thế gianĐức Phật vượt trội hơn mọi người, làm Thầy của Trời người vì Ngài còn tạo tác được một Báo thân viên mãn. Đó là thân phước đức trọn vẹn và trí tuệ vô song của Phật mới đóng vai trò quan trọng trong việc giáo hóa độ sanh.

Trong hệ thống tư tưởng Đại thừa, kinh Hoa Nghiêm còn hướng tầm nhìn về Phật cao hơn nữa. Dưới nhãn quan Hoa Nghiêmtri thức và đạo đức của Phật chẳng những là tấm gương kiểu mẫu cho một số người noi theo, mà quan trọng hơn nữa là cả một xã hội đương thời phải nương theo tri thức và đạo đức của Bậc Toàn giác để hình thành một xã hội tốt đẹpvăn minh, gọi là Tịnh độTịnh độ của Phật, nói đơn giản là một nước mà ở đó chỉ có con người tài đức và xã hội trong sáng hoàn toàn. Đó là tinh thần Đại thừa đã nâng con người và xã hội lên mức lý tưởng như vậy và biến lý tưởng thành hiện thực.

Trong ngày Lễ Phật đản, một trong những nghi thức kỷ niệm mà các chùa đều tổ chức là lễ Tắm Phật. Làm lễ Tắm PhậtTăng Ni Phật tử thường đọc bài chú Tắm Phật như sau:

Ngã kim quán mộc chư Như Lai
Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ
Ngũ trược chúng sanh tịnh ly cấu
Đồng chứng Như Lai tịnh Pháp thân
Tỳ Gia thành lý vị tằng sanh
Sa La thọ gian vị tằng diệt
Bất sanh bất diệt lão Cồ Đàm
Nhãn trung khán kiến trùng thiên tiết
Kim triêu chính thị tứ ngoạt bát
Tịnh Phạn vương cung sanh Tất Đạt
Cửu long phúng thủy thiên ngoại lai
Bỗng túc Liên Hoa tùng địa phát
Án mâu nimâu ni, tam mâu ni, tát phạ ha.

Bốn câu đầu của bài kệ có nghĩa là chúng ta tắm gội các Đức Như Lai để làm cho thân tâm của chính chúng ta được trong sạch và nhờ đó mới tích tụ được công đức. Tại sao tắm Đức Như Lai mà lại làm cho chúng ta được trong sạch? Đó là ý quan trọng mà tinh thần Đại thừa muốn khai mở.

Thật vậy, dưới kiến giải của Đại thừaNhư Lai không phải là bức tượng gỗ trên bàn thờ, vì thế chúng ta không tắm tượng Như Lai ấy; hay nói đúng hơn, chúng ta nương theo hình thức tắm tượng Như Lai để nhắm đến mục tiêu quan trọng hơn, đó là gội rửa chính bản thân chúng ta cho thanh tịnh.

Và trong hệ thống tư tưởng Đại thừa, kinh Hoa Nghiêm được coi là đỉnh cao đã có cái nhìn phóng khoáng đến vô cùng, theo đó Đức Như Lai mà chúng ta cần quan tâm đến chính là những người hiện hữu tham dự lễ Tắm Phật, họ đang phát tâm Bồ đề hướng về Phật. Hướng tâm đến Phật nghĩa là hướng đến bậc thánh thiện trọn lành, thì lực thanh tịnh trọn lành ấy sẽ tác động như một màng lọc làm cho tâm họ lắng yên, xa rời những thứ nhơ cấu, triền phược và trở thành trong sạchThân tâm có thanh tịnh thì công đức mới tích tụThân tâm ô uế thì không thể nào tiếp nhận được những làn sóng thánh thiện của Phật truyền đến, tất nhiên không thể tu tạo được công đức.

Theo Phật dạy thì trên bản thểchúng ta và Phật đồng nhau, không khác. Nhưng vì chúng ta mê muội để cho bụi bặm phiền não nhiễm ô bám vào dày đặc, nên không thể tu tạo được công đức hoặc làm cho công đức tiêu tan, ta mới trở thành phàm phu khổ đau. Ý thức như vậy, bước theo dấu chân Phậtchúng ta phải tẩy rửa bụi bặm trần laotrong sạch hóa thân tâm, từ đó phát triển công đức đầy đủ để chứng được thân chân thật giống như Đức Như Lai, gọi là Pháp thân.

Lễ Tắm Phật đã thấm sâu vào sinh hoạt tín ngưỡng của nhân gian, nhưng nhiều người chưa hiểu được yếu nghĩa của bài kệ trên. Tuy nhiên, với tinh thần kính trọng Phật cao độ, nên thực tế chúng ta thấy sau buổi lễ Tắm Phật, nhiều người thường chia nhau nước tắm Phật để uống, hoặc đổ nước lên người khác. Tục lệ này ngày nay còn được người Thái Lan tôn trọng qua lễ hội tạt nước vô người khác như lời cầu mong cho mọi người gội sạch được bụi bặm phiền não của cuộc đờithân tâm được mát mẻ, an vui.

Đoạn thứ hai của bài kệ nhằm nhắc nhở chúng ta ý thức rằng Đức Phật thực không Đản sanh ở thành Ca Tỳ La Vệ và Ngài cũng chưa từng nhập diệt ở Sa La song thọĐức Phật bất sanh bất diệt ấy vẫn tồn tại miên viễn từ xa xưa cho đến ngày nay và hằng hữu mãi đến ngàn sau.

Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận hiện tượng lịch sử về cuộc đời của sanh thân Phật Thích Ca đã hiện hữu trên đất Ấn Độ. Yếu nghĩa quan trọng mà tinh thần Đại thừa muốn nhấn mạnh chính là nhắc nhở chúng ta không nên chấp chặt vào hình thức, dù đó là hình thức của đạo. Thật vậy, bài kệ trên phủ nhận hình thức đến mức nói rằng nếu thấy Phật sanh ở Ca Tỳ La Vệ và nhập diệt dưới cây Sa la, tưởng Phật hạn hẹp như vậy làm tâm ta sẽ có thêm vấn đề suy nghĩ theo vọng thức, nên bị vô minh ngăn che, phiền não nổi dậy mà khởi tâm thương tiếc, khóc than là không còn Phật nữa.

Nhìn thấy hình tượng Phật nhân lễ kỷ niệm Phật đản sanh ngày mùng 8 tháng 4, chúng ta liền hình dung Đức Phật ra đời ở cung vua Tịnh Phạn, có 9 con rồng phun nước, có 7 đóa hoa sen nổi lên đỡ chân Phật và theo thời gian, Phật lớn tuổi dần, rồi nhập diệt ở cây Sa la. Nghĩ nhớ về Phật như vậy thì theo tinh thần Đại thừa chẳng khác gì chúng ta coi trọng hiện tượng sanh diệt, chỉ làm ta thêm phiền não, không được thanh tịnh ví như cảm giác bị xốn xang khó chịu khi hạt bụi rơi vào mắt ta.

Dưới kiến giải của Đại thừaĐức Phật không sanh cũng không diệt ở cuộc đời này, còn hiện tượng sanh diệt trên cuộc đời là Ngài tùy duyên giáo hóa chúng sanh mà có, không phải thực.

Thâm nhập tinh thần này, việc quan trọng nhất của người tu hành là làm cho thân tâm của chính mình được thanh tịnh và chứng được quả vị Như Lai không sanh diệt đồng với Phật.

Vì vậy, đừng tưởng có Phật sanh diệt làm chúng ta kẹt với con người hữu hạn mà không bao giờ được giải thoát. Đừng chấp vào hình thức lễ nghi quá nhiều mà kẹt vào hiện tượng giới và bị những việc không cần thiết bao vây, ràng buộc, thì không phát triển tâm linh được và cũng đánh mất tánh giải thoát của đạo Phật.

Cần ý thức những hình thức sinh hoạt của Phật giáo là phương tiện nhằm giúp cho ta và người thăng tiến Bồ đề, phát huy chơn tâm thanh tịnhsáng suốt và hành động lợi ích cho đời mà chúng ta vẫn an trụ tự tại giải thoát.

Nhận chân và áp dụng được yếu nghĩa của bài kệ Tắm Phật trong cuộc sống tu hànhđạt được kết quả lợi lạc cho bản thân và mọi người. Đó là món quà vô giá mà Tăng NiPhật tử chúng ta dâng lên cúng dường Đức Từ phụ.

HT. Thích Trí Quảng | Giác Ngộ




Phat Dan Sanh 30

Tìm Hiểu Lễ Tắm Phật

Thích Đồng Thành


Lễ Tắm Phật là một trong những nghi thức phổ biến của Lễ hội Phật đản hằng năm trong nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau. Nghi thức này vốn đã xuất hiện khá lâu tại Ấn Độ, Trung Á và Trung Hoa, và ngày nay được duy trì trong hầu hết các cộng đồng Phật giáo khắp nơi như là một cử chỉ, một hành động để tỏ lòng tôn kínhhân hoan của người con Phật đối với sự xuất hiện của đấng Giác Ngộ trên cuộc đời này, cách đây hơn 2.600 năm.

Nguồn gốc của Lễ Tắm Phật xuất phát từ sự kiện Đản sanh của Thái tử Tất-đạt-đa tại vườn Lâm-tỳ-ni. Các bản kinh thuộc hai truyền thống Nam và Bắc truyền đều ghi lại rằng, khi hoàng hậu Ma-da đản sanh thái tử, từ trên không trung có hai dòng nước của chư thiên, một ấm một mát, rưới xuống để tắm cho hoàng hậu và thái tửsự kiện này được ghi lại trong kinh Đại bổn (Trường Bộ II), kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp (Trung Bộ III), lời mở đầu của bản chú giải truyện Bổn Sanh (Nidānakatha)[1]. Theo bộ Đại sự (Mahāvastu), khi thái tử ra đời, hai dòng nước ấm và lạnh thơm dịu, trong lành từ trên không trung rưới xuống để tắm cho Thái tử[2]. Tác phẩm Phật sở hành tán của ngài Mã Minh cũng ghi lại như trên[3].

Riêng kinh Phổ diệu thì ghi lại rằng lúc ấy từ trên hư không có chín con rồng phun nước xuống để tắm cho thái tử[4]. Căn cứ vào các tác phẩm này, các nghệ nhân Phật giáo đã mô tả lại cảnh Đản sanh của thái tử với rồng phun nước trong nhiều tác phẩm điêu khắc tại Lộc Uyển phía Bắc Ấn và Amarāvatī tại Nam Ấn. Một tác phẩm thuộc trường phái Gandhara được lưu giữ tại bảo tàng Peshawar (Pakistan) mô tả cảnh hai cung nữ đứng hầu bên thái tử, bên trên có trời Đế Thích và Phạm Thiên rưới nước từ cành hoa sen để tắm cho thái tử, hai bên thái tử lại có bốn vị chư thiên đang cung kính chiêm ngưỡng.

Theo kinh Quá khứ hiện tại nhân quả, khi thái tử ra đời có bốn vị Thiên vương dùng vải quý cõi trời nâng thái tửThích Đề Hoàn Nhơn mang lọng báu cùng Đại Phạm Thiên đứng hầu hai bên. Lúc đó có hai vị Long vương là Nan-đà và Ưu-ba-nan-đà từ trên hư không phun hai dòng nước ấm và mát để tắm thân Thái tử[5]. Có lẽ chính sự cung kính của chư thiên đối với sự kiện Đản sanh của thái tử được mô tả trong bản kinh này đã tạo nguồn cảm hứng để về sau trong mùa Phật đản, người Phật tử thường tôn trí tượng Đản sanh trong một bồn hay thau sạch và quý, đặt trong điện thờ Phật hay một nơi nào đó trang nghiêm, dùng nước sạch có ướp các loài hoa thơm để làm lễ tắm Phật nhằm tưởng nhớ đến ân đức của Đức Phật và bày tỏ niềm tôn kính sâu xa đối với Ngài.

Tuy chưa thể xác định được thời điểm cụ thể của sự xuất hiện Lễ Tắm Phật tại Ấn Độ, nhưng điều chắc chắn là lễ nghi này vốn phát xuất từ Ấn Độ trước khi được lưu truyền đến các quốc gia Phật giáo khác. Kinh Đại bảo tích có ghi lại chuyện công chúa Vimaladattā, con gái của vua Ba-tư-nặc ở thành Xá-vệ cùng với năm trăm Bà-la-môn ra khỏi thành, mang theo những lọ đựng đầy nước để dự lễ tắm tượng của một vị trời. Đoàn người vừa ra khỏi cổng thành thì gặp một số vị Tỳ-kheo. Các Bà-la-môn này cho rằng việc gặp đoàn Tỳ-kheo như thế là điềm chẳng lành nên bàn nhau quay về. Nhưng khi ấy công chúa Vimaladattā bằng cung cách từ ái và trí tuệ sắc sảo của mình đã giải thích cho các Bà-la-môn, khiến họ khởi tâm kính tín đối với Phật phápCâu chuyện này cho thấy sự tương hệ nào đó giữa Lễ Tắm Phật trong Phật giáo và lễ tắm tượng các vị thần trong Bà-la-môn giáo. Từ xa xưa, tín đồ Ấn giáo xem sông Hằng như một vị nữ thần linh thiêng và rằng nước của con sông này có khả năng rửa sạch tội lỗi cho những ai có nhân duyên được tắm và cầu nguyện ngay trong dòng sông ấy. Nhưng trong kinh Tự thuyết (Udāna), Đức Phật đã khẳng định rằng không có nước của sông nào có thể rửa sạch được tội lỗi và làm cho con người ta được thanh tịnh, dù đó là sông Hằng hay sông Già-da, mà chính sự thực hành pháp chân chính mới giúp cho con người được tịnh hóa.

Tác phẩm Nam hải ký qui nội pháp truyện của ngài Nghĩa Tịnh (635-713), người đã rời Trung Hoa vào năm 671 và sau đó tu học tại Ấn Độ trong khoảng thời gian mười năm, là một trong những sử liệu quý ghi lại chi tiết về những sinh hoạt tự viện và các qui chế của Tăng đoàn Phật giáo đương thời tại Ấn Độ. Quyển thứ tư của tác phẩm này có thuật lại cách thức tắm rửa các tôn tượng trong những tu viện Phật giáo như sau: “Tại các tu viện ở những nước phía Tây (Ấn Độ và Trung Á), vào buổi sáng diễn ra lễ tắm các tôn tượng, vị Thọ Sự (Karmadāna - vị sư phụ trách) gióng kiền trùy, cho giăng lọng báu quanh sân chùa, sắp những bình nước thơm thành hàng dọc theo điện Phật, sau đó đặt tôn tượng bằng vàng hoặc bạc, đồng hay đá vào bồn bằng vàng hoặc đồng, đá, hay gỗ. Trong khi các thiếu nữ tấu nhạc cúng dường, các vị sư đem dầu thơm (làm từ chiên đàntrầm hương) bôi khắp tượng rồi dùng nước thơm rưới tắm tôn tượng. Sau khi tắm rửa tượng xong, các vị sư lấy vải trắng sạch lau khô tượng rồi đem an trí lại trong điện Phật, dùng nhiều loại hoa trang hoàng quanh tượng. Nghi thức này do chúng Tăng trong chùa thực hiện theo sự hướng dẫn của vị Thọ sự. Tại các liêu phòng trong tu viện, mỗi ngày chư Tăng theo cách thức trên mà tắm rửa cẩn trọng những tôn tượng trong phòng mình[6]… đối với những tượng đồng, dù là nhỏ hay lớn, đều lấy tro mịn hay bột gạch để lau cho bóng, dùng nước sạch để tắm rửa cho đến khi tượng đẹp và trong như gương. Đối với tượng lớn, đại chúng trong tu viện cùng nhau lau tắm tượng trong mỗi nửa tháng hay mỗi tháng; còn với tượng nhỏ, nếu có thể, thì mỗi vị lau tắm mỗi ngày. Làm được như thế thì ít hoang phí, mà lại nhiều phước đức. Nếu lấy hai ngón tay thấm vào nước vừa được dùng để tắm tượng mà nhỏ lên đầu, thì đó gọi là nước cát tường. ”[7]

Tại Trung Hoa, sách Ngô thư là một trong những tư liệu đầu tiên nói đến Lễ Tắm Phật vào thời Tam quốc. Đến TK IV, Thạch Lặc (trị vì 319-333) của nhà Hậu Triệu đã tổ chức lễ tắm Phật. Phần tiểu sử ngài Phật Đồ Trừng trong Cao tăng truyện có ghi lại rằng Thạch Lặc thường gởi con mình vào các tu viện nhờ các nhà sư nuôi dưỡng và dạy dỗ. Mỗi khi đến ngày mồng tám tháng Tư, đích thân Thạch Lặc đến tu viện dự lễ tắm Phật để cầu phước báu cho con mình[8]. Phật tổ thống kỉ cũng ghi rằng ngày mồng tám tháng tư năm thứ sáu niên hiệu Đại Minh (462), vua Hiếu Võ Đế thiết lễ tắm Phật và lễ cúng dường chư Tăng ngay trong hoàng cung[9]. Như thế, đến thời Nam Bắc Triều, lễ tắm Phật không những được tổ chức trong các tu viện Phật giáo mà ngay cả trong hoàng cung. Do ảnh hưởng của sự khác biệt về quan điểm lịch sử của các tông phái Phật giáo tại Ấn Độ về ngày tháng Đản sanh của Đức Phật[10] và cũng do những tác động của xã hội và văn hóa Trung Hoa trong nhiều giai đoạn khác nhau, nên ngày Lễ Tắm Phật tại quốc gia này được tổ chức vào nhiều thời điểm trong các thời đại khác nhau. Dưới thời Nam Bắc Triều (386-577), Lễ Tắm Phật được tổ chức vào ngày mồng tám tháng Tư. Từ đời nhà Lương (502-557) cho đến đời nhà Liêu (916-1125), lễ này lại được diễn ra vào ngày mồng tám tháng Hai[11]. Song vào đời nhà Tống (960-1279) lễ được tổ chức vào ngày mồng tám tháng Chạp tại miền Bắc, nhưng ở miền Nam thì là ngày mồng tám tháng Tư. Sách Đông kinh mộng hoa lục ghi lại Lễ Tắm Phật vào cuối đời Tống rằng vào ngày mồng tám tháng Tư, cứ mỗi một trong số mười thiền viện lớn tại Lạc Dương đều tổ chức Lễ Tắm Phật và cúng dường chư Tăng[12]Nghi thức Lễ Tắm Phật cũng là một phần quan trọng trong bộ Bách Trượng thanh quy, được áp dụng trong các thiền viện kể từ thời ngài Bách Trượng (749-814). Trong các đời nhà Minh, Thanh, Lễ Tắm Phật đều được tổ chức vào ngày mồng tám tháng Tư. Trong số những bản kinh có ảnh hưởng nhiều đến cách thức tổ chức và ý nghĩa của Lễ Tắm Phật tại Trung Hoa, thì kinh Công đức tắm Phật là bản kinh được biết đến nhiều nhất.

Kinh Công đức tắm Phật (Dục Phật công đức kinh, T16n698) được ngài Nghĩa Tịnh dịch từ nguyên bản Phạn ngữ sang Hán ngữ vào năm 710. Đây là một bản kinh ngắn và hiện thời chỉ còn lưu lại trong đại tạng Trung Hoa. Nội dung của bản kinh này rất giống với kinh Công đức tắm tượng (Phật thuyết dục tượng công đức kinh, T16n697) do ngài Bảo Tư Duy (Manicintana?) đến từ Ấn Độ dịch vào năm 705. Riêng bài kệ nói về lý duyên sinh trong kinh lại giống với bài kệ trong kinh Công đức tạo tháp (Phật thuyết tạo tháp công đức kinh, T16n699) cũng do một nhà sư Ấn Độ, ngài Địa-bà-ha-la (Divākara) dịch vào năm 680.

Kinh Công đức tắm Phật được mở đầu với hai câu hỏi chính của Bồ-tát Thanh Tịnh Huệ: 1. Do đâu mà chư Phật thành tựu sắc thân thanh tịnh, đầy đủ tướng tốt? 2. Những chúng sanh sinh ra đời, gặp Phật và phát tâm cúng dường thì được vô lượng công đức, còn sau khi đức Phật nhập diệtchúng sanh nên cúng dường gì, tạo công đức gì để mau chứng được vô thượng Bồ-đề? Đức Phật dạy rằng Như Lai thành tựu sắc thân thanh tịnh là do tu tập những diệu pháp cao thượng như Lục ĐộTứ Vô Lượng Tâm, các pháp vô uý, trí tuệ… Nếu đối với các bậc giác ngộ như thế mà dùng tâm thanh tịnh để cúng dường hương, hoa… hoặc đối trước tôn tượng các Ngài mà trang hoàngnghiêm sức, dùng hương quý, nước thơm theo nghi thức mà tắm tôn tượng, đánh trống thỉnh chuông, xưng tán công đức của Như Lai, lại phát nguyện thù thắnghồi hướng chứng đắc trí tuệ vô thượng, thì hành giả sẽ được vô lượng vô biên công đức. Chư Phật vốn có ba thân là pháp thânthọ dụng thân và hóa thân. Vì thế, sau khi Đức Phật nhập diệt, nếu muốn cúng dường ba thân này thì nên cúng dường xá-lợi. Song xá-lợi lại có hai loại là thân cốt xá-lợi và pháp tụng xá-lợi. Trong bảy chúng đệ tử Phật, như ai muốn tạo tượng Phật, nếu không đủ khả năng, dầu tạo một pho tượng rất nhỏ, một ngôi tháp nhỏ để tôn thờ xá-lợi nhỏ như hạt cải, hoặc lại có người chỉ chép một bài kệ tụng trong kinh rồi an trí trong tháp thì cũng giống như đang dâng cúng một viên ngọc báu vào tháp, tùy theo khả năng mà chí thành cung kính cúng dường như thế thì không khác chi như đang cúng dường hiện thân của đức Phật. Những ai chí tâm cúng dường như thế sẽ có được mười lăm công đức thù thắng sau: 1. thường biết tàm quý; 2. phát khởi niềm tin thanh tịnh; 3. tâm ngay thẳng; 4. được gần gũi bạn lành; 5; chứng huệ vô lậu; 6. thường gặp chư Phật; 7. luôn hành trì chánh pháp; 8. làm đúng với lời nói; 9. tuỳ ý sanh vào quốc độ chư Phật; 10. nếu sanh trong nhân gian thì sanh vào dòng họ tôn quý, được người khác tôn kínhkhởi tâm hoan hỷ; 11. nếu sanh trong nhân gian thì tự nhiên biết niệm Phật; 12. không bị ma quân gây tổn hại; 13. hay hộ trì chánh pháp trong thời mạt pháp; 14. được chư Phật trong mười phương gia hộ; 15. mau thành tựu được năm phần pháp thân. Sau khi giảng dạy như thế, Đức Phật liền nói kệ trùng tuyên lại nghĩa trên.


Phần quan trọng thứ hai của bản kinh là lời giải đáp của Đức Phật cho Bồ-tát Thanh Tịnh Huệ về cách thức tắm tượng Phật trong đời vị laiĐức Phật dạy rằng khi tắm tôn tượng nên dùng các loại hương thơm như ngưu đầu chiên đànbạch đàn, tử đàn, trầm hương, uất kim hương, long não, xạ hương… pha vào nước sạch, đựng trong bình sạch. Chọn một nơi thanh tịnhđẹp đẽ thiết lập đàn tràng, hoặc vuông hay tròn, kích thước xứng hợp, trên đàn đặt một bệ tắm, ở giữa bệ này tôn trí tượng Phật. Khi tắm tượng thì dùng nước nóng thơm, trong sạch rưới từ trên xuống, sau đó tiếp dùng nước tinh khiết để tắm lại. Nước dùng để tắm này phải được lọc cho thật sạch để không làm tổn hại đến các vi trùng. Nếu lấy hai ngón tay thấm vào nước vừa được dùng để tắm tượng rồi nhỏ lên đầu, thì nước này được gọi là nước cát tường. Không được giẫm chân lên dòng nước tắm tượng đang chảy trên đất sạch. Sau khi tắm tượng xong, dùng khăn mềm, mịn và sạch lau khô tượng, xông các loại hương trầm thơm quanh tượng, rồi đặt tượng về vị trí cũ trong điện PhậtĐức Phật còn dạy rằng, nhờ việc tắm tượng như thế, chúng sanh trong hiện đời được nhiều phước báu thù thắngsở nguyện thành tựuquyến thuộc được an ổn, mau thành chánh giác. Sau khi an trí tượng về chỗ cũ, nên đối trước tượng dâng hươngchắp tay thành kính tụng bài kệ sau:

“Con nay tắm gội chư Như Lai
Công đức trang nghiêm tịnh trí đầy
Nguyện cho chúng sanh lìa năm trược
Mau chứng Như Lai tịnh pháp thân
Giới, định, tuệ… năm phần hương báu
Tỏa ngạt ngào trong khắp mười phương
Khói hương này xin hằng lan mãi
Phật sự làm vô lượng vô biên
Nguyện khổ nạn ba đường bặt dứt
Nhiệt não trừ, an trú thanh lương
Đồng phát tâm vô thượng Bồ-đề
Thoát biển ái lên bờ đại giác.”[13]

Như thế nội dung chính của bản kinh trên nói đến công đức của những việc xây tháp thờ xá-lợi và tạo tượng Phật, cũng như nghi thức tắm Phật. Ngoài báo thânĐức Phật còn có hai thân khác là pháp thân và ứng hóa thân. Do đó, dù Ngài đã thị hiện nhập diệt tại thành Câu-thi-na, nhưng sự giao cảm của Ngài với chúng sanh trong nhiều đời sau vẫn tiếp diễn bởi pháp thân Ngài siêu việt cả không gian và thời gianĐức Phật xuất hiện trong đời không phải như một vị cứu tinh có đầy đủ uy quyền để ban ơn hay giáng họa, mà Ngài là một người như bao nhiêu người khác, một chúng sanh như bao chúng sanh khác. Sau khi thành đạo dưới cội bồ-đề, Ngài du hóa khắp miền Bắc Ấn với vai trò của một vị thầy tâm linh, rất bình dị và cũng rất thánh thiện. Trong cương vị của một vị Đạo sư, một đấng giác ngộ, Ngài đã trao truyền những kinh nghiệm sống, tu tập và sự thể nghiệm hương vị giải thoát cho hàng đệ tử mình và những ai hữu duyên. Trong đạo Phật, nhân tố trọng tâm không phải là đức Phật mà là giáo pháp, đây chính là điểm khác biệt giữa Phật giáo với các truyền thống tôn giáo khác. Pháp mà Đức Phật đã tuyên thuyết là vô giá, đó là phương tiện để đưa đến sự thanh tịnh và an lạc viên mãn trong đời sống tâm linh, mà đức Phật và các bậc thánh Tăng là những minh chứng rõ nét nhất. Giáo pháp của Đức Phật do vậy cũng có giá trị tương đương với xá-lợi của Đức Phật. Như trong bản kinh trên đã đề cập, người Phật tử tỏ lòng tôn kính và niệm ân Đức Phật qua việc xây tháp thờ xá lợi, tạo tôn tượng để thờ phụng, nhưng sự tôn kính và báo ân như thế sẽ mang ý nghĩa chân chính và cao thượng hơn nếu họ biết giữ gìnhành trì và truyền bá Chánh pháp.

Như đã trình bày, nghi thức tắm tượng Phật được mô tả trong bản kinh trên là một trong những nét sinh hoạt tự viện tại Ấn Độ mà ngài Nghĩa Tịnh đã ghi lại trong ký sự của mình. Cách thức thực hành như thế không phải chỉ thuần túy là một nghi thức truyền thống đơn thuần mà còn là một pháp môn tu tập của chư Tăng Ni và người Phật tửBáo thân của Đức Phật đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, tâm Ngài thanh tịnh vô nhiễm và nhu nhuyếnpháp thân Ngài thì bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, cho nên việc tắm Phật là một cơ hội để hành giả thực tập nếp sống chánh niệm, trau dồi lòng khiêm cung, hướng tâm nhiệt thành đến Đức Phậthay nói cách khác, hướng đến sự viên mãn của đức hạnh và trí tuệ. Những dụng công trên của mỗi người tham dự lễ sẽ là những yếu tố tối quan trọng để họ tự chuyển, điều phục và thăng hoa tâm thức của mình. Trong biển sanh tử chập chùng, do vô minh sai sử, nên chúng sanh tạo vô số oan nghiệp, tâm thức luôn bị vẩn đục bởi những tố chất nhiễm ô của phiền nãotà kiến. Do vậy, mỗi khi được tắm Phật, tâm họ được lắng đọng trong niềm tôn kính thanh tịnh. Đó là cơ duyên hy hữu để mỗi người gội rửa thân tâmsám hối những lỗi lầm trong bao đời, để từ đây hướng đời mình đến sự tịnh hóa ba nghiệptừ bỏ những niềm vui tầm thường, mong manh thế tục để tìm đến niềm an lạc đích thực của tâm hồn.

Nhưng điều độc đáo ở đây là trong khung cảnh của buổi lễ thật trang nghiêmthanh tịnh đó, trong năng lực thành kính của đại chúng trong pháp hộihành giả phát khởi Bồ-đề tâmđại bi tâm hướng về pháp giới chúng sanh với một tâm hồn thanh khiết và thành kính. Đây chính là động lực có một sức mạnh kỳ diệu để giúp hành giả an trú vào chân tâm của mình mà khởi lên đại nguyện theo gương các bậc hiền nhân. Như thế, từ việc tắm tôn tượng Phật, hành giả lại có nhân duyên lớn để gội rửa tâm thức của chính mình, hầu trở về với Phật tánh thanh tịnh đang hiện hữu trong mình. Bàn về ý nghĩa của việc tắm Phật, ngài Nghĩa Tịnh đã viết rằng: cội gốc của sự tôn kính, không gì bằng tôn kính Tam bảotu tập quán tưởng, không gì bằng quán tưởng Tứ đế, nhưng chân lý thì uyên áo mà phàm tâm thì vướng phải nhiều ngoại duyên. Do vậy, nghi thức tắm rửa tôn tượng thật thiết thực và thích hợp. Dầu Đức Phật đã nhập diệt nhưng hình tượng Ngài vẫn còn, nên phải đối với tượng khởi tâm kính thành như thể Ngài đang hiện hữu. Hoặc có người mỗi ngày dùng hương hoa dâng cúng để khởi tâm thanh tịnh, lại có người siêng năng tắm rửa tượng để tự gội rửa nghiệp chướng hôn mêdụng tâm thực hành như thế thì tự thân được lợi ích rất nhiều, khó mà thấy biết được. Còn như khuyến hóa người khác thực hành theo thì bản thân cũng được nhiều công đức và lợi ích[14].

Là một lễ nghi có từ lâu đời và là phần thiết yếu của lễ hội Phật đản, Lễ Tắm Phật xuất hiện rất phổ biến trong các nước Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền. Riêng tại Việt Namlễ nghi này thường được tổ chức vào các ngày khác nhau, nhưng phổ biến nhất là ngày mồng tám tháng Tư, trong dịp Lễ Phật đản mỗi năm. Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt sử lược đều ghi lại rằng vào ngày mồng tám tháng Tư năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Nhân Tông đã dự xem Lễ Tắm Phật [15]. Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư, cứ mỗi tháng vào các ngày rằm, mồng một, và đặc biệt ngày mồng tám tháng Tư, nhà vua thường đến chùa Diên Hựu để làm lễ cầu phúc, thiết nghi tắm Phật[16]. Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh cũng nói đến việc nhà vua tổ chức lễ cầu an và thiết nghi tắm Phật vào các ngày mồng một và vào mùa xuân. Như thế, đủ để thấy dưới triều Lý, đặc biệt là dưới thời vua Lý Nhân Tông, ngoài lễ Phật đản, lễ tắm Phật cũng được phổ biến trong các sinh hoạt của Phật giáoLễ Phật đản cũng như lễ tắm Phật ngay từ thời Lý không chỉ đơn thuần là một nghi lễ của cộng đồng Phật giáo mà nó đã trở thành những sinh hoạt văn hóa chung trong dân gian. Điều này được ghi lại trong Lĩnh Nam trích quái như sau: “Ngày mồng tám tháng Tư, Man nương tự nhiên mà thác sinh lên trời, linh xác gói chôn trong chùa. Nhân dân lấy đó làm ngày sinh của Phật. Hàng năm cứ đến ngày này trai gái, già trẻ bốn phương tụ tập về chùa để vui chơi, ca múa các trò đàn địch mãi thành tục lệ, gọi là “hội tắm Phật”, đến nay lệ vẫn còn.”[17] Sự dung hòa giữa văn hóa Phật giáo nói chung và Lễ Tắm Phật nói riêng trong xã hội Việt Nam thời xưa đã được Lê Tắc ghi lại trong mục “Phong tục”, phần nói về phong tục dân gian của xã hội An Nam trong tác phẩm An Nam chí lược như sau: “Mồng tám tháng Tư, mài trầm hương và bạch-đàn-hương, dầm nước tắm rửa tượng Phật và dùng thứ bánh giầy mà cúng Phật. Tiết Đoan-Dương (mồng năm tháng năm), làm cái nhà gác ở giữa sông, vua ngồi coi đua thuyền. Ngày Trung-Nguyên, lập hội Vu-Lan-Bồn, để cúng tế, siêu độ cho người chết, tốn hao bao nhiêu cũng không tiếc.”[18] Tác phẩm này cho thấy một điều hết sức độc đáo là ngay từ thời Lý-Trần, việc dùng các loại hương thơm dầm nước để tắm tượng Phật, đúng như cách thức được mô tả trong kinh Công đức tắm Phật như trên đã được thực hiện phổ biến trong dân gian. Điều đó cũng đủ cho thấy sự phổ biến của nghi thức này trong các sinh hoạt văn hóa bản xứ.

Trải dài theo dòng lịch sử dân tộc, ngày Lễ Phật đản cùng nghi thức Tắm Phật đã trở thành một nét sinh hoạt tâm linh cao đẹp trong xã hội Việt Nam. Đối với người Phật tử, sự tôn kính, lòng nhiệt thành đối với Đức Phật trên nền tảng của chánh kiến mới thực sự mang lại cho họ một niềm tin trong sáng và sự an lạc đích thực, lâu dài. Mỗi khi dâng một nén hương, một đóa hoa, một phẩm vật lên Đức Phật, hay khi rưới những dòng nước tinh khiết lên tôn tượng của Ngài, đó chính là nhân duyên thù thắng để mỗi người quay về với chính mình, hầu tự sách tấn, tự trang nghiêm cho bản thân bằng hương đức hạnh, bằng hoa trí tuệ, và bằng nước nhẫn nhụctừ áitùy thuận thích ứng với mọi nhân duyên, ngay cả chướng duyên để hướng đến một nếp sống hướng thượngtỉnh giácPhải chăng chính những lúc đó, mỗi người đang tự tắm Phật trong từng sát-na của đời mình?

Thích Đồng Thành 
[1]. H. Nakamura, Gotama Buddha, Tokyo: Kosei Publishing, 2000, p. 66. [2]. S. Khosla, The Historical Evolution of the Buddha Legend, New Delhi: Intellectual, p. 17. [3]. Sđd. [4]. T3n186, tr. 494a. Theo Thích Ca phổ, chi tiết về chín con rồng này được ghi lại trong Đại thiện quyền kinh, T50n2040, tr. 5b. [5]. T3n189, tr.625a. [6]. T54n2125, tr.226b. [7]. Sđd. [8]. Cao tăng truyện, T50n2059, tr.384c. [9]. T49n2035, tr. 346a. [10]. Những quan điểm dị biệt này đã được ngài Huyền Trang ghi lại trong Đại đường tây vức ký, TT51n2087, tr.916b. [11]. Tục cao tăng truyện, T50n2060, tr.616a. [12]. K. Chen, The Chinese Transformation of Buddhism, Princeton: Princeton University Press, 1973, tr.265-266. [13]. T16n698, tr. 800b-c. [14]. T54n2125, tr. 226b. [15]. Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, (bản điện tử: Viện Việt Học, Westminster, 2001), tr. 109. Đại Việt sử lược, TP.HCM: NXBTPHCM, (bản điện tử: Viện Việt Học, Westminster, 2001), tr. 53. [16]. Đại Việt sử ký toàn thư, tr. 115. [17]. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, Huế: Nxb Thuận Hóa, 1999, tr. 144. [18]. An Nam chí lược, Huế: Viện Đại học Huế, (bản điện tử: Viện Việt Học, Westminster, 2001), tr. 16



phat dan sanh-2022

Ý NGHĨA GÌ NƠI 7 BƯỚC CHÂN SEN ?..


7 bước của đức Phật sơ sinh có ý nghĩa như vầy:

Trong quá khứ có vô lượng chư phật ra đời được ghi trong kinh điển trải qua các a tăng kỳ. Gần đây của Kiếp Hiện Tại lần lượt đã có 6 vị phật ra đời, đó là:

Đức Phật Tỳ Bà Thi
Đức Phật Thích Khí
Đức Phật Tỳ Xá
Đức Phật Ca La Tôn Đại
Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni
Đức Phật Ca Diếp

7 bước đó, mỗi bước tượng trưng cho mỗi vị phật, và trong đời này sẽ có một vị phật ra đời , bước thứ 7 đó chính là: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni chính là thái tử Sỹ Đạt Đa đản sinh trước đó!

7 bước trượng trưng cho làm chủ 6 căn, làm chủ thất tình thoát ra lục dục thoát khỏi luân hồi, vì số 7 đã vượt lên số 6 , mà số 6 là số của 6 cõi luân hồi dòng sanh tử .

Số bảy tượng trưng cho thất giác chi, thất bồ đề phần, nếu không có thất giác chi, thất bồ đề phần thì khó mà tu tập, mà khó tu tập thì sự giác ngộ lại khó hơn, nên con số 7 là trợ phẩm là trợ lực kế tiếp cho bát chánh đạo và cũng một trong 37 phẩm trợ đạo cho con đường giải thoát

Bảy đóa hoa sen, mỗi đóa hoa sen là mỗi vị phật không nhiễm bụi trần của thế gian, vì sao dưới bước chân ngài đi hoa sen lại nở mà không nở hoa khác, tại vì hoa sen tinh khiết, không ô nhiễm, sống chung với bùn nhưng không hôi tanh mùi bùn,

Cũng như vậy các ngài nhờ thế gian và cũng chính thế gian này mới thành Phật vì sen không mọc nơi nước sạch - Chúng ta cũng vậy hãy học theo các ngài, hãy kính trọng và thực hành theo các ngài, chúng ta có làm được không ? Chắc chắn là được, dù là hơi cảm thấy khó khăn? Người nhỏ làm việc nhỏ, người lớn làm việc lớn , chúng ta phải tập từ những hạnh căn bản nhất của người Phật tử :

Bố thí
Trì giới
Nhẫn nhục
Tinh tấn
Thiền định
Trí huệ
Đại Từ- Đại Bi-Đại Hỷ- Đại Xã

Đó là thập hạnh của bồ tát, nghe thì thấy đơn giản nhưng nó cũng thật khó và rất quan trọng đấy... Quan trong hơn thế chính là ý chí nỗ lực hướng đến phương trời giác ngộ giải thoát của mỗi bản thân của chúng ta.

- Trong ta có một ngôi chùa
Chỉ cần ngó lại.. Bụt vừa Đản sinh.
Quên thì 6 nẽo nổi chìm
Nhớ - trong một niệm thấy hình dáng xưa..

- Kính chúc cả chùa nhìn thấy được ''đức Phật của chính mình'' trong mùa Phật Đản này nha!

Namo Buddhaya

Như Nhiên
Thích Tánh Tuệ

__(())__



chua duc son (68)
Ý NIỆM CÔNG ĐỨC
TẮM PHẬT TRONG ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN

Thích Tâm Mãn

Lễ Tắm Phật như cam lộ tưới mát, công đức vô lượng khó có thể nghĩ bàn. Trong Kinh Dục Phật Công Đức có chép: "...Đức Phật còn dạy rằng, nhờ việc tắm tượng như thế, chúng sanh trong hiện đời được nhiều phước báu thù thắng, sở nguyện thành tựu, quyến thuộc được an ổn, mau thành chánh giác."
blankĐại Lễ Phật Đản từ ngàn xưa cho đến bây giờ, đối với tất cả mọi người con Phật trên khắp năm châu bốn biển, từ thành thị đến thôn quê, từ miền núi đến đồng bằng, từ đất liền đến hải đảo, cứ mỗi độ lễ Phật Đản trở về mọi người ai nấy bổng thấy trong lòng cảm giác hân hoan cứ như dâng trào, niềm vui chờ đón cứ muốn tràn đầy như một dòng nước lâu ngày bị bờ đê ngăn chận, đây là ý nghĩa của của công đức hình ảnh chín rồng phung nước tắm Phật.

Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân, từng đợt gió mang theo hơi nước của mưa xuân, cả thế gian như đắm chìm trong tươi mát, đất mẹ nhận những giọt cam lộ làm thấm nhuận đại địa đang xuân, sức sống tràn trề, tương lai tươi sáng, đây là ý nghĩa của những giọt nước từ cửu long phúng thủy tắm Phật sơ sinh.

Phật Đản lại về người người con Phật, nô nức thi đua trổ tài làm cho Phật đài trang nghiêm tráng lệ hơn nữa, xe hoa kiệu Phật thêm màu sắc mới, nghệ thuật treo đèn kết hoa thắm màu rực rỡ, mọi thứ đều hoàn mỹ tốt đẹp, không khác cung Tỳ La thuở trước, kém gì vườn Tỳ Ni ban xưa, tất cả đều là mới, tất cả đều là vui mừng cho nên gọi là Đản sanh, là công đức của những giọt nước của chín rồng phúng thủy ngày xưa, khi tắm cho Đức Phật sơ sinh vì muốn Ngài đem niềm tin mới và chân lý sáng ngời đến cho nhân loại.

Phật Đản lại về làm cho tâm của tất cả mọi người như bừng tỉnh lại, thấy được quá khứ của một năm, nhìn được lỗi lầm của mấy tháng, làm được gì, hay chưa làm được, đủ quyết tâm chưa hay chỉ đại khái thôi? đem niềm vui đến được bao người, gây khổ não cho mấy nhiêu kẻ khác, cảm thấy tự mình chưa đủ quyết tâm học Phật, cho nên lại thêm một lần nữa tắm Phật để nguyện cầu tin tấn thêm lên. Vì vậy những giọt của rồng tắm cho Phật lại một lần nữa thấm nhuận tâm điền của người biết nhìn ra lầm lỗi và tự mình biết hổ thẹn, tàm quý để sửa sai, Phật dạy đây là loại người có khả năng chóng thành Phật nhất, công đức của nước tắm Phật vì khiến người biết tàm quý ăn năn.

Phật Đản trở về, mọi người lại thành kính tác lễ tắm Phật hơn hai nghìn năm vẫn như vậy nao nức, suốt bao nhiêu lần cải triều, thay chúa vẫn một mực thăng hoa, xã hội loại người từ chế độ phong kiến đến kỷ nguyên khoa học hiện đại vẫn hết lòng cung kính học theo, vì lẽ gì? chỉ có một điều duy nhất, Phật là bậc đã giác ngộ, giáo pháp của Ngài là chân lý, con đường của Ngài là điểm đến của an lạc và giải thoát, vì tin như vậy nên chín rồng mới phúng nước cúng Phật, tắm cho Ngài là thể hiện chân thành và kính tin nhất đối với bậc Đại Giác, vì vậy đây là những giọt nước của niềm tin thanh tịnh, đủ công đức để làm trổi dậy chánh tín thanh tịnh của tất cả mọi người, đây gọi là công đức của cam lộ thánh thủy tắm Đức Như Lai vậy.

Phật Đản trở về, nhìn hình tượng sơ sanh của Đức Đại Giác, đủ tướng ngây thơ chân chất, cụ hình chính trực quang minh, trần lao không có chút bợn nhơ, phiền não không một hạt đeo dín, chiêm ngưỡng sơ sanh Phật tướng, hướng tâm mình về chốn tịnh minh, thấu suốt não phiền thế gian, đã hay; nên sửa tâm ta ngay thẳng, chỉ có tâm chánh mới thoát khỏi não phiền, chỉ có lòng chân thật mới được người tôn kính, gia đình hạnh phúc, xã hội bình yên đều có nguồn gốc từ tâm thanh tịnh. Đây là nhơn duyên thứ nhất để tâm về với Phật, là công đức vô lượng của Phật tướng nên rồng phung nước tắm gội Thế Tôn, nay con tắm Phật cũng nguyện được đắc tâm như vậy, vì thế nên gọi đây là công đức của giọt nước tắm Phật thân.

Mùa Phật Đản ai cũng một niềm nao nức đến chùa dự lễ tắm Phật, cùng thầy lành bạn quý kết thêm duyên, thầy lành là duyên quý, vì từ nơi thầy con học được đức từ bi hỷ xã, từ nơi thầy con được hành hạnh tri túc thường lạc, vì thầy dạy cho con pháp lành của chư Phật, nên thầy lành khó gặp là ý như vậy. Bạn quý, vì gặp nhau không khởi tâm phiền não, gặp nhau không có lời thị phi, cùng nhau học Phật, cùng nhau tu trì, cùng nhau phát tâm đồng tu cho đến ngày thành Phật đây là bạn quý vậy.

Cho nên "nhất Phật xuất thế thiên Phật hộ trì" một Đức Phật ra đời thì có ngàn chư Phật đến để hộ trì, và ngày Phật ra đời cũng chính là ngày mà mười phương chư Phật đến hộ trì và chúng con là những vị Phật trong tương lai nhân ngày Phật Đản Sanh phát tâm học Phật, chúng con tin chắc rằng những giọt nước của rồng tắm Phật trong đó cũng có phần của con, vì rằng trong những giọt nước có chứa công đức "Bất thối Bồ tát vi bạn lữ" luôn đồng hành cùng vói những Đức Phật trong tương lai, đây là công đức của tắm Phật vậy.

Lễ Phật Đản không ai nhắc ai mà hầu như tất cả mọi người nếu có tâm lành, thì điều nghĩ đến phải làm một việc thiện nào đó, trong mùa Phật Đản, như ăn chay để tạo phước, giúp đỡ một ai đó để nói lên hạnh từ, từ lời nói cho đến hành động như có một năng lực huyền diệu, khiến cho mọi người như tỉnh giác hơn, sống an lạc hơn, đây là công đức sống trong an lạc của Đức Phật, vì Ngài ra đời cũng vì nhân duyên đó, cho nên khi Ngài ra đời thiên long cảm được an lạc nên hoan hỷ phát tâm tắm Phật, và công đức này vẫn hằng diệu cho đến ngày nay.

Nói sao cho hết công đức của Phật, trong kinh thường dạy "công đức của Phật không thể nghĩ bàn". Trong Kinh Dục Phật Công Đức có chép về tắm phật có 15 công đức: "... Những ai chí tâm cúng dường như thế sẽ có được mười lăm công đức thù thắng sau: 1. Thường biết tàm quý; 2. Phát khởi niềm tin thanh tịnh; 3. Tâm ngay thẳng; 4. Được gần gũi bạn lành; 5: Chứng huệ vô lậu; 6. Thường gặp chư Phật; 7. Luôn hành trì chánh pháp; 8. Làm đúng với lời nói; 9. Tuỳ ý sanh vào quốc độ chư Phật; 10. Nếu sanh trong nhân gian thì sanh vào dòng họ tôn quý, được người khác tôn kính, khởi tâm hoan hỷ; 11. Nếu sanh trong nhân gian thì tự nhiên biết niệm Phật; 12. Không bị ma quân gây tổn hại; 13. hay hộ trì chánh pháp trong thời mạt pháp; 14. Được chư Phật trong mười phương gia hộ; 15. Mau thành tựu được năm phần Pháp thân."

Phật Đản dấu ấn của Phật thường trụ tại thế, ánh sáng của Chánh Pháp lan rộng khắp nơi nơi, Tăng già Đạo Phật như càng thêm nguyện lực, tín chúng bổn đạo như thêm trọn niềm vui, trong công đức của Chư Phật. lại một mùa Đản Sanh hòa hợp an lạc, thanh tịnh, thái bình.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/09/2010(Xem: 5170)
Mỗinăm đến ngày Phật Đản, nhìn hình tượng đức Phật Sơ Sinh tôi có cảm giácrằng sự kiện lịch sử ấy xảy ra dường như không xa lắm. Mớimột ngày nào trong vườn Lâm Tỳ Ni nơi thành Ca Tỳ La Vệ nước Nepal (mộtvương quốc của Ấn Độ), đức Từ phụ của chúng ta vì lợi ích của chúng sanh mà một lần nữa trở lại cõi đời này với hình ảnh một con người bình thường, một thoáng thời gian mà đã 2625 năm trôi qua, nhưng hình ảnh bậcvĩ đại đó vẫn còn sống mãi với dòng thời gian bất tận, và tồn tại mãi trong con tim của người phật tử chúng ta...
20/09/2010(Xem: 6778)
Mùahoa Ưu Ðàm nở, ngày Ðức Phật đản sanh lại về trong tâm tư người con Phật khắp nơi trên thế giới. Hàng triệu-triệu tấm lòng nhất tâm tưởng niệm và trang trọng cử hành đại lễ Khánh đản. ÐứcPhật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh. Sự hiện hữu của Bậc Ðại Giác Thế Tôn chính là bứcThông Ðiệp Hòa Bình gởi đến mọi loài chúng sinh trong tam giới...
17/09/2010(Xem: 5087)
Hằng năm, cứ mỗi độ mùa Phật đản về – thì khắp nơi khắp chốn –ở đâu – hình ảnh đức Phật hiện hữu, ngự trị ở đó không khí càng vui tươi, nhộn nhịp. Đó là tất cả những người con Phật hân hoan đón mừng ngày Phật đản. Kỷ niệm Phật đản là tưởng nhớ, ôn lại và tri ân về sự rađời vĩ đại của đức Phật... Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
10/09/2010(Xem: 50931)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
28/08/2010(Xem: 52590)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 51788)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567