Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

29. Phật đến rừng Trúc Lâm

21/03/201103:50(Xem: 5908)
29. Phật đến rừng Trúc Lâm

TRUYỆN PHẬT THÍCH-CA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

HỒI THỨ NHÌ

29. PHẬT ĐẾN RỪNG TRÚC LÂM

Đức Phật nhớ lại lời hứa cũ với vua Tần-bà-sa-la khi ngài còn đang đi tìm đạo. Vua có nguyện vọng khi nào ngài thành đạo xin trở lại mà tiếp độ cho vua và bá tánh ở thành Vương-xá.

Vì vậy, ngài tiếp tục đi sang thành Vương-xá. Lúc này lại có ba anh em Ca-diếp với một ngàn vị đệ tử mới cùng đi theo. Ông Ca-diếp vốn thông thạo địa hình vùng này, nên hướng dẫn tăng đoàn đến cư trú ở một khu rừng bên ngoài thành, cách kinh đô chừng hai dặm. Các vị sa-môn ngày ngày vào thành khất thực theo đúng phép tắc và giờ giấc mà Phật đã chỉ dạy.

Vua Tần-bà-sa-la hay tin Phật và một ngàn đệ tử đã đến ngụ bên ngoài thành, liền thân hành cùng với hoàng hậu, thái tử và triều thần đến lễ bái. Vua vừa đến nơi đã nhìn biết ngay thái tử Sĩ-đạt-ta thuở trước, liền mừng rỡ mà nói rằng:

“Ngài quả thật vẫn không quên sở nguyện ngày xưa của trẫm. Trẫm rất đa tạ và lấy làm kính phục ngài.”

Vua quỳ xuống lễ bái Phật hết sức cung kính, rồi đứng sang một bên khoanh tay hầu Phật.

Trong số người theo hầu vua, rất nhiều người biết ông Ca-diếp, vì xưa nay ông vốn là một bậc đạo sư đáng kính ở vùng này. Họ không biết rằng ông đã quy y theo Phật. Khi thấy vua lễ bái đức Phật, còn ông Ca-diếp thì khoanh tay đứng bên, họ rất ngạc nhiên. Một người bà-la-môn nói rằng:

“Hẳn là vua đã lầm rồi. Vua muốn đảnh lễ bậc thầy mà lại không nhìn ra ngài Ca-diếp.”

Một người nữa cũng nói theo rằng:

“Đúng đấy, ở đây chỉ có ngài Ca-diếp là bậc thầy đáng kính thôi.”

Khi ấy, ông Ca-diếp nhận biết tâm trạng hoang mang của mọi người. Ông liền đến quì xuống lễ bái dưới chân Phật. Sau đó, ông công bố cho tất cả những vị quan khách ở thành Vương-xá mới đến được biết việc ông đã quy y, thờ Phật làm thầy mình. Hết thảy mọi người đều ngạc nhiên và không dấu được sự thán phục đối với đức Phật.

Liền đó, đức Phật giảng giải pháp Tứ diệu đế cho mọi người nghe. Khi ngài giảng xong, Vua Tần-bà-sa-la liền đến lễ bái, và đối trước Phật cùng tất cả những người khác, vua phát nguyện rằng:

“Trẫm lấy lòng thành tín mà qui y Phật, qui y Pháp và qui y giáo hội Tăng-già.”

Sau đó vua thỉnh Phật và chư tăng vào cung để nhận buổi lễ cúng dường do vua tổ chức. Đây là buổi cúng dường lớn nhất và trang trọng nhất từ trước đến nay, vì số chư tăng tham dự đến cả ngàn người. Đức Phật nhận lời. Vua liền từ tạ trở về để sắp xếp. Buổi lễ được dự tính sẽ diễn ra trong 10 ngày sau đó.

Vào ngày đã định, Phật cùng chư tăng uy nghiêm tiến vào thành Vương-xá, đi đến cung vua. Thật là một quang cảnh hiếm thấy thời bấy giờ. Đoàn chư tăng cả ngàn người nhưng ai nấy đều bước đi thong thả trong sự oai nghi, thanh thoát, không có một rối loạn nào. Nhân dân trong thành đồng kéo nhau ra khỏi nhà, chen nhau mà xem. Vì thế, đoàn người phải đi rất chậm.

Trong thành, vua Tần-bà-sa-la đã cho treo đèn, kết hoa và dựng cờ phướn khắp nơi để chào đón Phật và chư tăng. Đường sá được dọn dẹp sạch sẽ, có quân binh chia nhau giữ trật tự hai bên đường. Nhờ vậy, dù công chúng chen lấn nhau đi xem rất đông, nhưng không có điều gì lộn xộn xảy ra cả.

Tại buổi cúng dường, vua thỉnh Phật ngồi trên một tòa cao. Tất cả chư tăng đều có chỗ ngồi trang trọng. Những người phục vụ mang thức ăn đến cho từng vị, rồi mang nước rửa tay khi ăn xong.

Chư tăng thực hành nghi thức chú nguyện trước khi ăn, và khi ăn giữ yên lặng tuyệt đối. Tất cả những oai nghi đó làm cho vua và triều thần càng thêm cung kính.

Sau khi thọ trai xong, vua sắp xếp chỗ ngồi cho tất cả mọi người để nghe Phật thuyết pháp. Nhân dịp này, đức Phật lần đầu tiên giảng về việc quy y Tam bảo và thọ trì năm giới của người tại gia. Ngài nói về những lợi ích của việc thọ trì năm giới, và khuyên hết thảy mọi người nên phát tâm thọ trì.

Sau buổi thuyết pháp của Phật, tất cả những người có mặt đều phát tâm quy y Tam bảo và xin được truyền thọ năm giới.

Tiếp đó, vua Tần-bà-sa-la quỳ bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Được ngài đến đây thọ nhận buổi cúng dường này, trẫm lấy làm hân hạnh lắm. Trẫm muốn từ đây thường được thấy mặt ngài và nghe lời dạy dỗ của ngài. Hơn nữa, số chư tăng theo ngài rất đông, không thể ở mãi nơi chỗ ở hiện nay được. Vì vậy, trẫm muốn cúng dường một khu rừng gọi là Trúc Lâm, nằm ở gần kinh thành hơn. Khu rừng này rộng rãi, ngài và chư tăng có thể an trụ nơi đó mà tu tập rất thuận tiện. Nếu ngài nhận lời, trẫm sẽ cho xây cất tinh xá ở nơi đó.”

Đức Phật mỉm cười ưng thuận. Vua truyền quân mang đến một cái chậu nhỏ bằng vàng đựng đầy nước thơm. Vua bưng lấy chậu, làm lễ xối nước trên tay Phật và nói rằng:

“Trẫm nguyện rằng, cũng như nước này từ nơi tay trẫm mà chảy xuống tay ngài, cảnh tinh xá Trúc Lâm cũng sẽ từ nơi tay trẫm mà sang qua tay ngài nhanh chóng như thế.”

Ngay hôm ấy, vua cho khởi công xây dựng tinh xá Trúc Lâm. Về sau, đây là một nơi thánh địa quan trọng mà Phật đã từng thuyết giảng rất nhiều bộ kinh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2013(Xem: 6441)
Năm nay, 2013 là đúng 50 năm pháp nạn 1963 của Phật Giáo Việt Nam. Chi tiết mà nói có 3 sự kiện đáng ghi nhớ: chiều tối ngày 8 tháng 5 năm 1963 trong cuộc biểu tình của đồng bào Phật tử trước đài phát thanh Huế đòi đài này phát thanh lại các bài thuyết pháp nhân ngày Lễ Phật Đản Phật Lịch 2507 đã có 8 em Phật tử bị xe tăng và súng đạn của chế độ TT Ngô Đình Diệm giết chết;
21/05/2013(Xem: 2968)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
21/05/2013(Xem: 4684)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiện và đạo Phật ra đời...
01/05/2013(Xem: 2997)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
23/04/2013(Xem: 10379)
More than two thousand five hundred years ago, an Indian prince, at the age of twenty-nine, gave up his palace, authority, power, as well as a luxurious life to retreat into forest solitude to discover the remedy for human life’s afflictions and sufferings. He sought guidance from famous masters of the day; however, none could show him the way to real enlightenment and deliverance.
08/04/2013(Xem: 7385)
Nhằm hướng dẫn đệ tử tu tập đạt được hiệu quả tốt nhất, Ðức Phật đã linh động vận dụng trí tuệ trình bày bằng những ví dụ vừa thực tế, vừa sống động, mang tính hấp dẫn và đầy tính khả thi. Sau đây, soạn giả xin giới thiệu một số ví dụ để độc giả nào tha thiết tìm hiểu giáo lý thâm diệu ...
08/04/2013(Xem: 6574)
Thời điểm đức Phật vào Niết Bàn tại Câu Thi Na (Kushinaga) rừng Sa La Song Thọ, một số đệ tử Ngài vô cùng thương tiếc muốn tịch diệt theo, thậm chí có một vài đệ tử không nở chứng kiến tình cảnh đó, đành thất lễ mà ra đi trước. Ngược lại cũng có một ít đệ tử vì không uống được giáo pháp giải thoát nên cảm thấy vui hơn là buồn, bởi rồi sẽ không còn ai khiển trách mình nữa!
08/04/2013(Xem: 3346)
Bắt nguồn một tôn giáo nào, vị giáo chủ bao giờ cũng là một tấm gương sáng cho tín đồ soi chung để tiến bước. Nhưng trong các vị giáo chủ của các tôn giáo hiện có trên thế giới này, không có một vị* nào đầy đủ ý nghĩa cao đẹp, một đời sống sâu xa bằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
08/04/2013(Xem: 15200)
Được sự chỉ đạo của Hòa thượng Trưởng ban Hoằng pháp Trung ương GHPGVN, Ban Biên tập Chương trình Phật học hàm thụ (PHHT) đã tiến hành biên soạn bộ sách "Phật học cơ bản" nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học viên đang theo học chương trình PHHT, cũng như của đông đảo Tăng Ni và Phật tử. Bộ sách "Phật học cơ bản" này gồm 4 tập, được biên soạn bởi nhiều tác giả và trình bày theo thứ tự từ các vấn đề Phật học căn bản cho đến các chủ đề giáo lý chuyên sâu, nhằm giúp người học có một số kiến thức cơ bản về Phật giáo. Trong tập sách đầu tiên này, chúng tôi in lại các bài giảng của chương trình PHHT năm thứ nhất (1998-1999) đã được đăng trên nguyệt san Giác Ngộ, thành một tuyển tập. Hy vọng tuyển tập này sẽ giúp quý độc giả trong việc tìm hiểu và nghiên cứu về những giáo lý Phật học. Ban Biên Soạn Chương trình Phật học Hàm thụ
08/04/2013(Xem: 18068)
Đại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Đại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Đại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Đại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Đại đức qua Đại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Đại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Đại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Đại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]