Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Luận Giải Cư Trần Lạc Đạo Phú (TT Chúc Hiền thuyết trình tại Trường Hạ 2024 tại Tu Viện Đại Bi, California, Hoa Kỳ )

30/06/202407:37(Xem: 4317)
Luận Giải Cư Trần Lạc Đạo Phú (TT Chúc Hiền thuyết trình tại Trường Hạ 2024 tại Tu Viện Đại Bi, California, Hoa Kỳ )
Luận Giải Cư Trần Lạc Đạo Phú

(TT Chúc Hiền thuyết trình tại Trường Hạ 2024
tại Tu Viện Đại Bi, California, Hoa Kỳ )





Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch chư Tôn Đức! Hôm nay con xin được trình bày về “Cư Trần Lạc Đạo Phú” của Trúc Lâm Đầu Đà. Bài này có 10 hồi. Có thể hôm nay con trình bày một hay hai hồi vì thời lượng không nhiều. 

Trúc Lâm Đầu Đà, Ngài tên thật là Trần Khâm. Sinh năm 1258, lên ngôi năm 1278, ở ngôi 15 năm từ 1278 đến 1293, nhường ngôi cho con lên làm Thượng hoàng 6 năm từ 1293 đến 1299, sau đó ngài đi tu 9 năm từ năm 1299 đến năm 1308. Năm 1308 ngài viên tịch. Trụ thế 50 tuổi Tây, 51 tuổiTa. 
Đó là cuộc đời của Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Ngài là anh hùng dân tộc, là một bậc minh quân, là vị tổ khai sáng ra dòng thiền Việt Nam.
Hồi Thứ Nhất:

 “Mình ngồi thành thị; nết dùng sơn lâm. Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính; nửa ngày rồi tự tại thân tâm”. Chính câu này mà có người cho rằng Trúc Lâm Đầu Đà đã viết Cư Trần Lạc Đạo Phú lúc ngài còn ở kinh thành Thăng Long. Nhưng theo con thì Cư Trần Lạc Đạo Phú  được tác giả sáng tác vào thời điểm ngài đã xuất gia ở trên núi Yên Tử. Vì lòng tự hào dân tộc, niềm kiêu hãnh dân tộc, để bảo tồn nền độc lập tự chủ, bảo tồn văn hóa của Đại Việt, Trúc Lâm Đầu Đà đã sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình để viết nên Cư Trần Lạc Đạo Phú, một tuyệt tác văn học Thiền của Phật giao Việt Nam. Cư Trần Lạc Đạo Phú với bút pháp tuyệt diệu theo lối văn biền ngẫu. Vế trước đối với vế sau. Câu trước đối với câu sau, tạo thành những cặp song đối thật súc tích, cô đọng rất hay, đạt đến đỉnh điểm trên phương cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật “ Dĩ văn tải đạo”: Dùng văn chở đạo. Đây là bài văn bằng chữ Nôm đầu tiên trên dòng lịch sử văn học nước nhà.

   Mở đầu Hồi thứ nhất bằng chữ “Mình” rất hay, rất tuyệt diệu! Chữ “ Mình” ở đây Trúc Lâm Đầu Đà nói về chính bản thân mình đồng thời cũng để nói cho số đông. Vào thời ấy mà tác giả không dùng chữ “ 我:ngã” hay chữ “ 吾:ngô” mà là dùng chữ “ Mình” rất chi là Việt Nam. Chữ “ Mình” ở đây rất gần gũi, rất thân thương, dùng một chữ “ Mình” này đã ôm trọn cả dân tộc Đại Việt. Ngài không dùng chữ “居:cư” nghĩa là ở mà dùng chữ “ ngồi”. Chữ ngồi chữ Hán là chữ “坐:tọa “.Tọa có nghĩa làngồi. Học theo Trúc Lâm Đầu Đà, Thay vì mình nói:” Mời quý vị tọa thiền”, thì mình nói: “Mời quý vị ngồi thiền”. Cho bớt lệ thuộc vào chữ Hán. Trong nghi thức tiến linh có bài kệ châm trà: 

“Dương Tử giang tâm thuỷ
Mông Sơn đảnh thượng trà
Hương linh tam ẩm liễu
Tảo sanh pháp vương gia”.

Dịch nghĩa: 

“Nước giữa sông Dương Tử
Trà trên đĩnh Mông Sơn
Hương linh uống ba lần
Sớm sanh nhà Pháp Vương”.

    Dương Tử Giang tức là Trường Giang ở Trung Quốc là con sông dài nhất châu Á.
   Mông Sơn: Cách 15 dặm phía về hướng Tây huyện Danh Sơn, châu Nhã An, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. 

  Lấy trà trên đĩnh Mông Sơn pha với nước sông Dương Tử rồi đem dâng cúng cho hương linh. Hương linh uống ba lần thì hương linh được sanh vào nhà Pháp Vương. Tại sao chỉ có nước Sông Dương Tử và trà trên đỉnh Mông Sơn mới được? Khi phát hiện ra điều này, con quyết định không đọc bài kệ này nữa. Noi theo tinh thần Trúc Lâm Đầu Đà, con đã mạo muội viết bài kệ dâng trà mới để thay cho bài kệ trên. 

“Trà thơm ba chén hiến dâng
Ngưỡng mong linh tưởng thương lòng chứng tri
Cam lồ rưới khắp mọi thì ( thời)
Nghe lời kinh Phật thoát đi ách nàn.
Sanh về Tịnh độ Lạc bang 
Di Đà giáo hóa sen vàng nhẹ nâng”.

“Thành thị” là nơi đông đúc, xô bồ. Vậy mà Trúc Lâm Đầu Đà nói:” Nết dùng sơn lâm”. Nết là nết hạnh, tánh nết, nết na. Như thông thường chúng ta nói: “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Người tu chúng ta cũng có cái nết đẹp của người tu. Nết đẹp của người tu được huân đúc, tôi luyện trong bốn oai nghi: Đi, đứng, ngồi nằm. Mỗi người xuất gia khi vào chốn thiền môn, đều phải học qua bốn quyển Luật Trường Hàng. Trong đó có quyển Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu có những bài thi kệ ngắn để người tu nhiếp niệm thúc liễm thân tâm trong mọi hoạt động hằng ngày. “Nết” ở đây chỉ cho tâm tư, cốt cách, phong thái, thần thái của người ở thành thị mà như là ở nơi thanh vắng yên tĩnh, nơi núi rừng cô tịch. Phải là người đắc đạo mới có được tâm tư và đạo phong như thế. Và Trúc Lâm Đầu Đà là bậc đã đắc đạo.

  “Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tánh. Nữa ngày rồi tự tại thân tâm”. 

Thường chúng ta nói ba nghiệp: “Thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp”. Ở đây ngài nói: “Muôn nghiệp”. Tức là thân nghiệp tạo ra không biết bao nhiêu là nghiệp. Khẩu nghiệp tạo ra không biết bao nhiêu là nghiệp và ý nghiệp tạo ra không biết bao nhiêu là nghiệp. Nghiệp là hành động có tác ý được lặp đi lặp lại nhiều lần. Kinh Hoa Nghiêm nói: 

“ Giả sử bách thiên kiếp
Sở tạo nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo hoàn tự thọ”.

Nghĩa là:

“ Giả sử trăm ngàn kiếp
Những nghiệp tạo ra không mất
Khi nhân duyên hội ngộ
Quả báo mình tự nhận”.

Nghiệp theo chúng ta như bóng với hình. Đọc bài kệ này rồi chúng ta không dám tạo nghiệp nữa. Để tiêu trừ nghiệp chướng, chúng ta nên hằng ngày sám hối, chứ không phải đợi 14 hay 30 mới sám hối. Sám hối bằng cách lạy:  Lương Hoàng Sám, Thuỷ Sám, Ngũ Bách Danh Kinh, Hồng Danh Sám Hối.v.v.




tt chuc hien (1)tt chuc hien (2)tt chuc hien (3)tt chuc hien (4)tt chuc hien (5)tt chuc hien (6)tt chuc hien (7)tt chuc hien (8)tt chuc hien (9)

Muôn nghiệp về thân, về khẩu,về ý lặng rồi, sạch rồi thì Thể tánh an nhàn hiện ra. Mỗi người chúng ta đều có thể tánh trong sáng, nhưng vì vô minh phiền não,nghiệp chướng che lấp. Thể tánh này chính là Bản lai diện mục của mỗi người. Chính là cái mà Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.” Chính là Tri kiến Phật, là hạt châu trong chéo áo của kinh Pháp Hoa, là Thể tánh tịnh minh chơn tâm thường trú trong Kinh Lăng Nghiêm, là “Bổn lai vô nhất vật” của Lục Tổ Huệ Năng. Thể tánh này chúng sanh và Phật như nhau. “Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng”.  Bình đẳng của đạo Phật là chỗ này. Thấy được thể tánh này rồi bắt đầu tu gọi là: Kiến tánh khởi tu(見 性 起 修)Tức là khi thấy được thể tánh rỗng lặng đó rồi thì đi đứng nằm ngồi, làm mọi việc nhưng đâu đấu nhìn thẳng vào đó một cách miên mật. Như trong “Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn”thiền sư Tuệ Hải có hỏi:  Từ đâu mà tu? Đáp từ căn bản tu. Thế nào từ căn bản tu? Đáp: Tâm là căn bản”.( Nguyên văn: 問:從何而修?答:從根本修。云何從根本修?答:心為根本). Mục đích của người tu là làm sao thấy cho được thể tánh đó của mình. Nếu thấy được thể tánh trong sáng đó thì tu mới thấy thú vị. Còn như không thấy được thì thể tánh ấy thì tu không có gì thú vị. Tu thời gian đâm ra chán. Thông thường chúng ta đều sống trên vọng thức, sống trên nghiệp thức mà sống trên vọng thức, sống trên nghiệp thức thì dễ bị cuốn vào vòng luân hồi phiền não khổ đau. Vô thường đi qua nhanh lắm, vèo một cái là hết năm, vèo một cái là hết năm. 

- 寸 光 陰 -寸 金
寸 金 難 買 寸 光 陰

Nhất thốn quang âm nhất thốn kim
Thốn kim nan mãi thốn quang âm

Nghĩa là: 

“Một tấc thời gian một tấc vàng
Tấc vàng khó mua được tấc thời gian”.

  Nếu chúng ta không thấy được thể tánh của mình thì uổng lắm. Vô thường đến thình lình, mình không biết đi về đâu?! Thì uổng một đời! Con thì con chưa thấy, nhưng con cảm được có cái gì đó rất quý ở nơi mình. Mỗi khi có bao nhiêu phiền não xảy ra, lặng lẽ xoay nhìn lại thì thấy cái đó hiện ra và cảm thấy mình sung sướng và hạnh phúc. Ước gì tất cả chúng ta đều thấy và sống được với thể tánh quý báu đó hoài, để rồi mọi người được sống trong cảnh an vui không còn thị phi tranh chấp hơn thua..!
“ Nửa ngày rồi tự tại thân tâm”. Chữ “ rồi “ ở đây đối lại với chữ “lặng” ở vế trước.  Toàn bài Phú, Trúc Lâm Đầu Đà đã viết theo lối văn biền ngẫu. Vế trước và vế sau đối nhau chan chát thật là trác việt. Viết theo lối hành văn này rất khó. Ngày nay ít người chạm đến.

 “Rồi”ở đây có nghĩa là an nhàn thân tâm được tự tại. Thế nào là tự tại? Tự tại với sắc thanh hương vị xúc pháp. Chúng ta thường bị sắc thanh hương vị xúc pháp chi phối. Như Trần Thái Tông nói:

“Lưỡi vướng vị ngon tai vướng tiếng
Mắt theo hình sắc mũi theo hương
Lênh đênh làm khách phong trần mãi
Ngày tháng xa quê muôn dặm trường”.

 Tai chúng ta dễ bị vướng tiếng lắm! Người ta khen mình thì ngay lập tức không chỉ miệng cười, môi cười, mắt cười, mà bốn vạn tám ngàn lỗ chân lông đều mỉm cười, khắp châu thân đều mỉm cười. Nhưng người ta mà chê mình thì không chỉ mắt buồn, mặt buồn, môi buồn, mà tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông đều buồn,đều xìu xuống, cả châu thân đều buồn.

“Tham ái nguồn dừng chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý, thị phi tiếng lặn dầu được nghe yến thốt oanh ngâm”.

Nguồn tham ái dừng được rồi, cõi lòng thanh thản chơn tánh hiển hiện thì đối với châu báu vàng ngọc không còn vướng bận. Tiếng thị phi lặng rồi thì tha hồ nghe yến, oanh ca hót 

“ Chơi nước biếc, ẩn non xanh nhân gian có nhiều người đắc ý. Ngắm đào hồng hay liễu lục thiên hạ năng mấy chủ tri âm”. 
Dạo nơi sông suối trong, ẩn nơi rừng sâu nhân gian có nhiều đắc ý, vui thích. “Ngắm đào hồng, hay liễu lục”. Chữ “hay” ở đây đối với chữ “ngắm”ở vế trước “Ngắm đào hồng”. Đồng thời đối với chữ “ ẩn” ở câu trên “ Ẩn non xanh”. Nên chữ “ hay” ở đây có nghĩa là biết, là rõ. Liễu lục nghĩa là liễu màu xanh. “Ngắm đào hồng, biết liễu màu xanh, nhưng thiên hạ có mấy người có khả năng nhận ra được “ Chủ tri âm”. Chủ tri âm là mỗi người chúng ta đều có ông chủ tri âm đó. Mình đi ông chủ đó cũng đi. Mình ngồi ông chủ cũng ngồi. Mình nằm ông chủ cũng nằm. Mình ăn cơm ông chủ cũng ăn cơm. Mình làm bất cứ việc gì ông chủ cũng có mặt. Cho nên gọi là tri âm tri kỷ. Nhưng trong chúng ta có mấy người nhận ra được ông Chủ tri âm của mình? Ngài Linh Vân thấy hoa đào nở thì nhận ra được ông chủ tri âm của mình.

三十年來尋劍客
幾回落葉又抽枝
自從一見桃花後
直至如今更不疑

Tam thập niên lai tầm khách kiếm
Kỷ hồi lạc diệp hựu trừu chi
Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu
Trực chí như kim cánh bất nghi

Nghĩa là: 

Ba mươi năm đi tìm kiếm khách
Bao mùa lá rụng lại đâm chồi
Từ ngày thấy được hoa đào nở
Thẳng đến hôm nay không còn nghi.

Một khi thấy được “Chủ tri âm” đích thực của mình rồi thì: “Nguyệt bạc vừng xanh soi mọi chỗ, thiền hà lai láng. Liễu mềm hoa tốt ngất quần sanh, tuệ nhật sâm lâm”. Quá là hay. Lời văn nhẹ nhàng thanh thoát ý tứ cao vời.

“Nguyệt bạc” là mặt trăng màu bạc. Ánh sáng trăng là ánh sáng huyền dịu. “Nhất thiết tu đa la như tiêu chỉ nguyệt”. Tất cả kinh điển như là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu chấp vào ngón tay thì sẽ không thấy mặt trăng. Mỗi người chúng ta đều có mặt trăng huyền dịu linh mầu sáng rỡ, sờ sờ trước mắt, nhưng chúng ta đã bị mây mờ của vô minh, phiền não, lo toan, khổ đau che khuất. Để cho đám mây mờ kia tan đi để cho vầng trăng kia hiển lộ, chúng ta tu tập bằng cách tham thiền, tụng kinh, niệm Phật .v.v. Chúng ta nhờ pháp để tu. Không nhờ pháp thì không tu được. Nhưng tu thời gian thì bị chấp, mà chấp là trật. Chấp ngã rồi lại chấp pháp. Như mượn thuyền để qua sông. Qua sông rồi vác thuyền lên vai để đi có đúng không? Qua sông rồi thả thuyền để đi tiếp. Nhưng mà qua sông mới thả thuyền. Chưa qua sông mà thả thuyền thì bị chết chìm. Lái xe đi đến Tu Viện Đại Bi rồi thì đậu xe, xuống xe, đi vào trong Chánh điện lễ Phật. Còn như lái xe đến Tu Viện Đại Bi rồi không chịu xuống xe mà cứ ngồi trên xe, thì dù có lái xe ngàn lần đến Tu Viện Đại Bi thì cũng thấy được bên trong Chánh điện của Tu Viện Đại Bi. 

“Vừng xanh” tức là trời xanh không có mây che. Chữ của thế kỷ mười ba. Bầu trời xanh ở đây chỉ cho chơn tâm rỗng lặng của mỗi người. Trong cõi lòng của mỗi người chúng ta một khi mà tham, sân, si, phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, xiễm, hại, kiêu, vô tàm, vô quý, hôn trầm, trạo cử, tán loạn, thất niệm, bất chánh tri lặng hết rồi thì, chơn tâm hiển hiện, mặt trăng trí tuệ hiện ra. Như Trần Thái Tông nói:

千 江 有 水 千 江 月
萬 里 無 雲 萬 里 天
“ Thiên giang hữu thuỷ thiên giang nguyệt
Vạn lý vô vân vạn lý thiên”

Nghĩa là: 

“Ngàn sông có nước ngàn sông trăng
Muôn dặm không mây muôn dặm trời”

Ngôn ngữ thiền quá là hay. Quá là tuyệt diệu. Cái hay của ngôn ngữ thiền là không nói ra hết, mà để lơ lửng, để thôi thúc hành giả tự mình nỗ lực tinh tấn đi vào thế giới nội tại, để lãnh hội, để thấu triệt và để khai phóng con người đích thực của chính mình. 

  Con xin dừng lại ở đây vì hết giờ. Con thành kính đảnh lễ tri ân chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni cùng hội chúng. Trong suốt thời gian trình bày con có điều gì sai sót. Kính mong quý Ngài từ bi hoan hỷ bỏ qua cho con. Con xin thành tâm đảnh lễ sám hối. 
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát 
 
Tu Viện Đại Bi, California, Mùa An Cư-2024. PL.2568.
Thích Chúc Hiền


 🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️


Kính mời xem tiếp:

Luận Giải Cư Trần Lạc Đạo Phú (phần 2)
TT Chúc Hiền thuyết trình tại Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ lần thứ 11)







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/10/2021(Xem: 6691)
Bắt sóng gió phải đứng yên là điều không thể ! Hãy vui với sự thay đổi ... chấp nhận, làm quen Mọi sự việc cần thời gian khắc phục .. lẽ đương nhiên Chớ đặt nặng vấn đề ... cảm giác bị động ! Tập thoải mái như cưỡi ván, lướt nhẹ theo sóng Đừng chủ động hoạch định sớm tương lai Hiện tại cứ chánh niệm, ... bình an tránh họa tai Khai thác được hết tiềm năng mình trong chữ NHẪN
14/10/2021(Xem: 6548)
TÂM tịnh để cùng rõ khắp phương, Đạo hoà TÂM cảm thấy người thương. Cần TÂM sáng, tuệ sinh oai tướng, Thấu pháp an, TÂM mở rộng đường. Chân lý vững,TÂM phàm tục rã, Hiểm TÂM ngời, nghiệp khổ sầu vương. Trần đời xả hết TÂM trong lắng, Gần đến đích TÂM rõ lạc thường
13/10/2021(Xem: 5106)
Tháo chạy trên Quê Hương Nói sao cho hết nỗi ưu buồn! Đồng bào tôi tháo chạy trên chính Quê Hương Từng đoàn người trốn chạy Dắt díu nhau trên những đoạn đường Từ Bình Dương đến Gia Lai, Hoặc còn dài hơn thế nữa! Hành trang là mấy mươi gói mì khô Ăn tạm bữa 1 ngày 2 gói, Nước lã uống cầm hơi! Mong cầu sự sống! Người đèo xe gắn máy Người còng cõi đạp xe Kẻ khốn cùng di chuyển với đôi chân Tháo chạy khỏi thành Hồ để mưu cầu cho sự sống! Màn trời chiếu đất! Mặc cho đe doạ! mặc cho chốt chặn của lũ người không có lòng nhân
13/10/2021(Xem: 7762)
Từ phương xa, tôi đã đi theo những chiếc xe không đồng Tiếp sức với người trở về quê hương Lòng đầy xúc cảm! Thương dân tôi tình đồng bào thắm thiết Nghĩa ân này xin ghi chép vào đây Để cháu con ngày sau nhìn lại trang sử Việt Nam Thấy được tình người khi gặp cảnh cơ nguy Thương làm sao những thanh thiếu niên đầy lòng nhân ái Đón đồng bào tháo chạy trên QH
11/10/2021(Xem: 7809)
Lá lành đùm lá rách ! Kính dâng Thầy bài thơ và kính được chia sẻ chút tâm tư lắng đọng qua những hình ảnh mà nhóm thiện nguyện tại VN đã làm được (con có đóng góp tịnh tài ) trong những ngày phong tỏa nhất là những địa phương hẻo lánh . Kính chúc sức khỏe Thầy, HH Vẫn biết ...mỗi cá nhân vào đời do duyên nghiệp ! Chỉ có tu đạo tích Phước sẽ chuyển hoá phần nào Tin quê nhà mở cửa ... dạ xao xuyến nao nao Chút khả năng có được... nỗ lực xúc tiến !
10/10/2021(Xem: 11945)
Kiếp nhân sinh, hồng trần là cõi tạm Đến rồi đi, không trụ bám dài lâu Đời vô thường, như những chiếc bóng câu Sinh ly tử biệt, về đâu khi nhắm mắt. Hãy vui bước, dù dòng đời thưa nhặt Hãy cùng nhau dìu dắt bước chân đi Lòng vị tha, cứu giúp kẻ gian nguy Đem nhân ái, từ bi cho người khó.
03/10/2021(Xem: 9364)
“Lời nói không là dao Mà cắt lòng đau nhói Lời nói không là khói Mà khoé mắt cay cay Lời nói không là mây Mà đưa ta xa mãi Sao không ngồi nghĩ lại Nói với nhau nhẹ nhàng”… Có phải những câu thơ trên nhắc nhở ....chúng ta không nên xem thường lời nói. Lời nói tuy là gió bay nhưng nó ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời của người khác cũng như chính bản thân của chúng ta. Lời nói là thứ vô hình nhưng mang trong mình một sức mạnh lớn lao, nó tác động đến chúng ta theo nhiều cách khác nhau, thậm chí là vượt xa những gì mà chúng ta có thể tưởng tượng được. Bằng lời nói, ta có thể thấy người khác mỉm cười, vui vẻ và hạnh phúc . Nhưng cũng bằng lời nói, chúng ta có thể khiến người khác đau khổ, căm ghét hay thù hận. Những lời nói tốt đẹp có thể kết nối mọi người, nó là phép màu có thể làm sáng ngày buồn của ai đó, khiến người khác cảm thấy được thấu hiểu, quan tâm.
03/10/2021(Xem: 5701)
Cách tiếp cận tâm linh (Cảm tác từ bài viết Giác Ngộ Tự Tánh của tác giả Lửa Mới ) Thực tại Tâm linh khó đến bằng lý trí , kiến thức! Diễn đàn văn hoá, mọi tôn giáo ...chung mối quan tâm (1) Thể hiện góc nhìn sáng tạo từng mỗi cá nhân Tựu chung vẫn phải đạt Mười điều NHƯ THỊ (2) Mọi phương tiện hành trì , chỉ cần nhận ra Chân lý Giác ngộ Tự tánh ... con mắt trí tuệ mở ra (3) Hãy đơn thuần chỉ “nhìn nó như là nó là” Trong cái Thấy chỉ là cái Thấy ...... ........không nghĩ ngợi phân biệt!
01/10/2021(Xem: 8280)
Kính dâng Thầy bài thơ khi vừa học được từ Sư Sán Nhiên với thành ngữ " Thất bại là mẹ kinh nghiệm và Kinh nghiệm là cha của thành công " để bắt đầu cho môn học thật khó đó là Vi Diệu Pháp . Kính chúc sức khỏe Thầy, HH Kho tàng trân bảo ngàn ngàn năm còn đó Người đi tìm dùng nhiều phương cách khác nhau Dù gian nan khổ nhọc đến thế nào Vũng niềm tin có bản đồ.... thẳng tiến ! Biết được kho tàng đang nằm giữa biển Học dần kinh nghiệm từ những thuyền nhân Làm sao ngăn ngừa thủy quái , xoáy ngầm Điều cần thiết nhất ... tinh thần Tự Giác
26/09/2021(Xem: 6905)
Mùa Hạ nóng bức đã đi qua, mùa Thu chợt đến mang theo những cơn mưa đầu mùa, dấu chân ấy đang lang thang khắp cả dãi nắng niềm Trung, ra tận khắp hai đầu Nam - Bắc. Những giọt mưa đông đang tràn về khi dịch tể hoành hành khắp đất trời và trên Thế giới, trong đó có Việt Nam, khiến cho bao nhiêu triệu người bị thiệt mạng, dẫu có thuốc ngăn ngừa tiêm chủng trên Thế giới, giờ tất cả sống chung với căn bệnh Virus Corona, vì một Đại cuộc sinh tồn bảo vệ nhân sinh. Từ một Quốc gia có tiềm lực kinh tế giàu mạnh, khởi tâm tình thương chia sẻ viện trợ cho Quốc gia mới phát triển, giúp cho hàng tỉ người được tiêm chủng phòng ngừa, giờ tất cả nhân loại đang sống chung với Virus Corona, ai ai cũng nên tuân thủ việc bịt khẩu trang vì chúng ta hãy hiểu rằng: “Bịt khẩu trang, sẽ dễ chịu hơn nhiều, khi mang theo máy thở”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]