Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển Tập Thơ Quê Chiều

11/03/202416:56(Xem: 1583)
Tuyển Tập Thơ Quê Chiều


Que Chieu_HT Thich Dong Bon



MỘT TIẾNG DIỀU ĐÊM
ĐỘNG SUỐI THƠ


Đây là tập thứ 5 trong tuyển thơ Quê chiều của thi sĩ - thiền sư Thích Đồng Bổn. Đọc thi phẩm này, trong tôi chợt hiện lên hai hình ảnh - âm thanh hòa quyện: tiếng diều đêm vi vút và tiếng suối thơ dạt dào. Đêm vắng, trời dẫu trong, vằng vặc trăng cũng khó thấy cánh diều, chỉ tiếng sáo diều bổng trầm vọng lại. Phải tĩnh tâm, phải lắng hồn mới thấu được thanh âm đồng quê ấy. Còn suối thơ trong trẻo, lặng lẽ mà kiên tâm, đi xa để trở về, khởi nguồn cho sự hòa kết đạo - đời, tạo duyên cho bao gặp gỡ của những chân tâm truy tầm cái đẹp trong cõi tịnh.

Là tu sĩ, thi nhân thường bộc lộ ý hướng hoằng dương Phật pháp qua sáng tác của mình. Điều này cũng là hợp lẽ; bao người trước và cùng thời với tác giả đã, đang và sẽ làm. Nhưng đạt được tâm nguyện xét từ góc độ giao cảm, lan tỏa của thi tính, thi ngôn hay không, là chuyện khác. Cảm giác mục đích giáo huấn mà nhiều người xem trọng, với thầy Đồng Bổn, chỉ là hệ quả tất yếu, đến sau những ngẫm ngợi, phát hiện tự nhiên mà hàm chứa bao ý vị của thơ, của đời. Có được điều đó, một phần người thơ thường sử dụng cấu trúc ba phần: Nhập - Luận - Kết. Phần “nhập” là thi hứng khởi đi từ một sự vật, hiện tượng, tình huống,… trong đời sống. “Luận” là những ngẫm suy từ chính trải nghiệm của bản thân tác giả trong cõi đời, cõi đạo. “Kết” là bài học quyện hòa giữa đạo và đời, hướng đến sự khai tâm, đốn ngộ. Ví như bài Suối nguồn, từ mối quan hệ có tính tuần hoàn tự nhiên của suối con với Mẹ nguồn, từ sự tinh khiết của dòng nước đầu non, người thơ chứng nghiệm sự đánh mất bản nguyên của suối, cũng là của mỗi cá nhân, trong hành trình làm người, qua đó nhắn gởi một lời khuyên hữu lí, dễ thực thi “giác lộ”, giúp cho cái tâm được như nhất, an yên giữa dòng đời bất định, xô bồ:

Giáo pháp ấy gọi là tánh thủy
Sống hài hòa vốn dĩ an bài
Bầu đựng tròn, ống chứa thì dài
Sao cũng được, mỗi ngày pháp dược.

Ở nhiều bài trong thơ khác như Sách hay, Biển, Cái cân, Cây cau, Cây chuối, Kính lão, Quả bóng, Thảm chùi chân, Tầm nhìn, Lỗi lầm, Uống trà, Một thuở,… ta cũng gặp cấu trúc này. Lối kiến trúc “tam tài” đó làm nổi bật tính chất của dụ ngôn - những triết lí sống, những bài học quý ngầm ẩn dưới lớp vỏ ngôn từ tựa một thứ nước mát lành để muôn đóa hoa lòng khoe hương tỏa sắc. Đó là lối dụng ngôn theo kiểu “hai trong một”: thực hành thơ đồng thời dụng hành Phật pháp, Phật ngôn cất tiếng thành thi ngôn. Là kiểu “thi tại tâm” nên ý tình tự nhiên hiển lộ, tự nhiên cảm động lòng người.
Tám ba phần trăm bài thơ (58/70 bài) có nhan đề gồm một hoặc hai tiếng. Những tựa tối cô đúc, chỉ một từ, ghim vào tâm trí bạn đọc, gợi ở họ sự tò mò, khả năng đồng sáng tạo: Hỏi, Lắng, Mê, Kiếp, Mượn, Tạm, Nghĩa,… Một mà khơi dẫn tuệ giác tới vô cùng. Thi nhân sẻ chia với chúng ta bao liệu pháp quen thuộc mà hữu dụng để sống bình yên, ý nghĩa: phương thức giữ cho tâm hằng an giữa biển đời cuộn sóng; giải pháp tiêu trừ nghiệp chướng, gieo nhân lành gặt quả thiện, thoát khỏi vòng luẩn quẩn trả vay, giả tạm; cách buông bỏ những muộn phiền đeo đẳng, khắc chế tham sân, vượt bờ mê sang bến giác: “Quán nhân duyên mau dứt vọng mê lầm/ Cho sóng thức không vang ầm tâm thức” (Biển);… Đây cũng là biểu hiện sinh động cho tính hàm súc, nhiều dư ba, lắng đọng của thơ thấm đẫm ý vị Thiền.

Cái duyên khá ấn tượng của tập thơ là sự nhóm gộp các sáng tác cùng đề tài, cùng một trường ngữ nghĩa, trường liên tưởng, có sự giao thoa ý tứ, cũ mới giao duyên: từ cách đảnh lễ của Phật tử, đặc tính của cỏ cây, đồ vật đến chuyện Phật duyên, chuyện mười hai con giáp, những tâm sự về bản thân, về tha nhân,… Phương diện nào cũng có những phát hiện độc sáng. Điều đó cho thấy trường liên tưởng nhạy bén, cảm hứng thơ rất vượng của thi nhân. Chẳng hạn, với một yếu tố thời gian không xác định “khi”, thi sĩ đã quán chiếu đến bao điều: nỗi buồn trước sự vô minh, thói bạc tình, gánh nặng tuổi tác, lẽ sinh li tử biệt, hợp tan (Buồn khi); sự chấp nhận nghịch cảnh, một lòng với lí tưởng để trưởng thành trong đời, trong đạo (Dẫu khi); ý hướng dưỡng tâm luyện chí, nỗ lực tìm hạnh duyên cũng chính là tìm kiếm bản lai diện mục của mình (Đợi khi, Hỏi khi); niềm hi vọng về một kết quả viên thành, dứt khỏi bao ràng rịt cõi Ta bà với luân hồi sinh tử, với lợi danh phù phiếm (Mơ khi); tâm trạng hoài nhớ một quãng đời dĩ vãng để an yên trong hiện tại và vững bước trên con đường phía trước (Nào khi, Ngẫm khi, Nghĩ khi); sự ưu tư, trăn trở trước tuồng ảo hóa, lẽ phù sinh, rồi tự răn, tự quyết để tự do tự tại, an lạc với lựa chọn của mình: “Ở trong thế giới của thiền/Mà nhìn vũ trụ khởi duyên niết bàn” (Ngỡ khi, Nhỡ khi, Thấy khi, Thoảng khi, Từ khi),… Tương tự là những suy ngẫm từ tập tính để từ đó liên hệ đến cốt cách, phẩm hạnh của con người ở cả hai giới nam và nữ. Một chút siêu hình nhưng vẫn hữu lí bởi chứng nghiệm của người trong cuộc. Bao nhiêu điều đặt ra cho độc giả qua không ít trạng huống đời - đạo, đời - thơ mà nhân vật trữ tình Thấy - Hỏi - Ngẫm - Nghĩ… Cảm giác như dẫu ở đối tượng, cảnh huống nào, thi nhân cũng còn vương nợ với tha nhân nhiều lắm. Một bè lau sang bến, một lối nhỏ giữa đời, một bóng mát cho lữ khách dặm xa, một bài tập cho chúng sinh sửa tâm, dưỡng tánh đến với thiện duyên. Đó cũng là ý nghĩa tích cực của thơ, của đạo, vượt khỏi sự hữu hạn của câu từ, một xác tín cho sự dung hòa hai nhân trí: tu sĩ và thi sĩ. Sự đa dạng đề tài, cảm hứng là minh chứng về sự mở rộng tâm không để đón nhận những vang động của đời, lọc qua lăng kính đạo, để cho thơ cất lời: “Vượt lên ngôn ngữ văn tự ấy/ Muôn ngàn tuệ giác vẫn lặng thinh” (Nhưng khi).

Đồng hành với những nẻo đường tu, những suy nghiệm của tác giả, ta dễ dàng tri nhận hình tượng thiền sư - thi sĩ của Thích Đồng Bổn trong thi phẩm này. Đó là tâm thế của người bước đến cửa Không, vui duyên đạo cùng mõ sớm chuông chiều, vững lòng trên con đường đã chọn. Dẫu có buồn vì nhân tình thế thái, vì dâu bể phôi pha, vì tuổi già bệnh tật, nhưng không hề thấy sự than thân trách phận. Thấu suốt chữ “tùy duyên”, nên trên tất cả vẫn là tiếng lòng thiết tha hướng đến đạo, đến đời, để cho tốt đời đẹp đạo, đời đạo vẹn toàn: “Đời hanh thông, đạo mới xiển dương” (Kỉ niệm). Đó là một cái tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến. Với quan niệm, tâm thế sống “tùy duyên”, thuận theo lẽ thiền để vượt qua vòng đau khổ, người thơ đã có được sự an yên, thong dong, tự tại trong “duyên đạo”:

Tan thì cứ để nó tan đi
Thị phi cũng vậy khổ làm gì
Hạnh phúc vui buồn rồi trôi hết
Thôi kệ, mặc lòng nghĩ đến chi!
(Tan trôi)

Như đã nói ở trên, thầy Đồng Bổn không dụng tâm thơ hóa những triết lí uyên áo của Phật giáo. Sự rung động hồn thơ trước hết đến từ những nghĩ suy, đắn đót trước phận người, nỗi mình. Cõi đạo là cái lí, ở ngôi trên; còn cõi đời, cõi thơ là cái tình, là phần đời lắm nỗi. Không ít bài thơ thể hiện tâm trạng lưỡng phân rất con người, rất nghệ sĩ của thi nhân. Tôi, và có thể nhiều độc giả khác, sẽ ấn tượng với những câu thơ lệch chuẩn như thế - một chút Tản Đà muốn làm thằng Cuội chốn cung Hằng, vừa thoát tục vừa vấn vít nghiệp duyên trần thế. Những dòng thơ lưỡng phân cho thấy hành trình tự thức ngộ chẳng mấy dễ dàng của người trong cuộc về lẽ sống, ý nghĩa đích thực của mỗi cá nhân:

Hỏi khi lên gặp chị Hằng
Xin cho ở tạm lầu trăng vài đời
Chờ khi Thánh chúng rước mời
Ra đi xin tạ đôi lời tri ân...
(Hỏi khi)

Để rồi:

Đêm về vằng vặc ánh sao
Thấy mình rơi rụng trên cao mấy tầng.
(Kiếp)

Bởi thế mà nhân vật trữ tình thường có tâm trạng đắn đo, cân nhắc giữa hai cõi trần - tiên, hai cách hành xử: quay lưng thoát tục và hành đạo giữa đời:

Nghĩ đi tính lại ở cõi này
Chẳng đi đâu nữa trụ tại đây
Bây giờ, thực tại là mãi mãi
Nghĩ là tưởng tượng có gì sai!
(Nghĩ khi)

Và cuối cùng đi đến xác quyết:
Quay về tiếp quãng đường lành
Không quay về để tìm danh vị đời
Bước ra được khỏi trò chơi
Nguyện vào nhà Phật lên đồi hoa tâm.
(Quay về)

Tu tập, hành xử phải đạo là một cách trở lại cái “bản thiện”, cái “tự tánh” của con người, để sinh linh thoát khỏi thống khổ của bể vô minh, bến ái tình, lẽ phù sinh vô thường hòng an nhiên, thấu suốt trên đường giác ngộ - “nẻo về” của mình: “tâm hòa tánh thuận để xa luân hồi” (Nào khi).

Tập thơ tái hiện cả một quãng đường từ thuở ấu thơ hồn nhiên vô tư lự giữa làng quê yên bình đến tuổi gần thất thập, giữa ồn ào phố thị, đã thức ngộ lẽ vi diệu của đạo, cái tạm bợ của đời, đã dọn lòng thanh tịnh để hướng vọng Ngày Về của thi nhân: “Nương trong pháp Phật ngõ về an vui” (Phù hợp).
Không nặng nề, phô diễn Phật ngữ, lời lẽ chân tình, giản dị, cận nhân tình,… Tác giả cũng không hề che giấu tâm nguyện mượn thơ để lan tỏa đạo, gởi trao những thông điệp gần gũi, nhiệm màu, để san sẻ ân tình với muôn nơi. Người nghệ sĩ ngôn từ đã kiến tạo cây cầu bền đẹp nối hai bờ đời - đạo, kết nối những tấm lòng từ ái, tạo một kênh hữu hiệu để giao cảm những chân tâm đồng điệu.

BÙI THANH TRUYỀN





pdf






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2021(Xem: 6905)
Theo Kinh Bi Hoa, tiền thân của Bồ Tát Phổ Hiền là Thái tử Năng Đà Nô, con thứ tư của Vua Vô Tránh Niệm. Nghe lời phụ vương, Thái tử phát tâm cúng dường Đức Phật Bảo Tạng cùng chư Tăng trong ba tháng An cư kiết Hạ. Quan đại thần là Bảo Hải mới khuyên Thái tử hồi hướng công đức về đạo Vô Thượng Bồ Đề, cầu thành Phật hơn là phước báu hữu lậu nhân thiên. Thái tử nghe lời và trước Đức Phật Bảo Tạng, đã phát nguyện hồi hướng Đạo Vô Thượng Chánh Giác, phát Bồ Đề tâm, tu tập vô lượng hạnh nguyện Bồ Tát mà giáo hóa mọi loài chúng sanh, cầu chứng ngôi Phật đạo và nguyện đặng cõi Phật rất thanh tịnh trang nghiêm, bao nhiêu những sự tốt đẹp và sự giáo hóa chúng sanh đều y như thế giới của Phổ Hiền Như Lai.
04/04/2021(Xem: 4549)
Sống giữa dương trần tựa chốn tiên, Thênh thang chẳng vướng dạ an ghiền. Sáng lên Đường luật vui bằng hữu, Chiều xuống bồ đoàn tĩnh chút duyên. Được thế cơ may đừng để cạn, Hờn chi phận mỏng phải mang phiền. Xuân qua hạ đến thời thay đổi, Hiểu rõ từng ngày giảm thụy miên. (*)
03/04/2021(Xem: 7440)
Quán Thế Âm Bồ Tát Chánh Pháp Minh Như Lai Phụ tá Di Đà Phật Cõi Cực Lạc phương Tây
02/04/2021(Xem: 4799)
Dòng thời gian! Kính bạch Thầy , tháng tư lại về (nhất là ngày 2/4 năm nào ) được đi hành hương Japan, Korea, Taiwan 16 ngày chung với các bạn của đạo tràng Quảng Đức lần đầu tiên . Kỷ niệm khó quên ....nhưng năm nay chuyện tương lai khó đoán ...nên con có bài thơ này kính dâng Thầy như gọi là tri ân cho sự thuận duyên của Pháp và Kính tặng tất cả những bạn đã đồng hành chung ... Bốn ngày lễ kéo dài mùa Phục Sinh lại đến ! Dòng thời gian lặng lẽ cứ trôi nhanh Hơn một năm ...kinh tế thế giới đóng khoanh Vì hậu quả đại dịch ...phong tỏa mở rồi bế!
01/04/2021(Xem: 9856)
Bài chúc Tết của NS Hoài Linh gây xôn xao MXH: Tự làm thơ hơn 7000 chữ, nhắc đủ 63 tỉnh thành với kiến thức sử địa quá uyên thâm! Trong dịp đầu năm mới, đông đảo các nghệ sĩ trong showbiz Việt đã gửi những lời chúc bình an, sức khoẻ đến với người hâm mộ. Thế nhưng ấn tượng và được netizen chia sẻ nhiều nhất chính là bài thơ chúc Tết được đầu tư và vô cùng sáng tạo của NS Hoài Linh. Ngoài tài làm thơ, NS Hoài Linh còn chứng minh có kiến thức lịch sử và địa lý uyên thâm khi chúc Tết theo đặc trưng từng tỉnh thành ở Việt Nam. Từ những thành phố lớn, đến vùng núi xa xôi, loạt danh lam thắng cảnh, lịch sử thành lập hay đặc nét riêng vùng miền đều được NS Hoài Linh đưa vào bài thơ mang tên Chúc Xuân một cách tài tình. Ngay lập tức, màn chúc Tết có tâm nhất Vbiz của NS Hoài Linh được người hâm mộ "thả tim" và chia sẻ rầm rộ trên MXH. Sau hơn 1 giờ đăng tải, bài thơ chúc Tết hơn 7000 chữ và gần 500 câu của NS Hoài Linh đã nhận được 86 nghìn lượt yêu thích, hàng chục nghìn bình lu
30/03/2021(Xem: 4631)
Lá rụng bao mùa vẫn thấy thê! Mẹ ơi! Sao lặng mãi chưa về! Ra đi biền biệt lời không để, Ở lại u buồn cảnh cũng lê.
30/03/2021(Xem: 5462)
Thêm một đêm mất ngủ Giấc ngủ bay đi xa Đêm kia: tình mẫu tử Đêm bây giờ: tình Cha!
23/03/2021(Xem: 5281)
Phong lan dìu dịu cổng Hồ điệp lặng lẽ thơm Bên thềm ai ngơ ngẩn Đọng sầu đón hoàng hôn
22/03/2021(Xem: 9434)
Tiếng vó ngựa vang trong đêm thanh vắng Ngày Tám Tháng Hai thế kỷ Hăm Lăm Ánh trăng thượng tuần chiếu soi vằng vặc Một bóng Người lập đại nguyện phát tâm
22/03/2021(Xem: 6901)
Được Nhạc sĩ Minh Huy gửi tặng bản nhạc Tạ Tình với lời bài thơ và lời bản nhạc có khác nhau một ít. Lời nhạc tình hơn, nhưng lời bài thơ bảy chữ hay một cách tuyệt vời. Đọc lời bài thơ, người viết thật xúc động, nhưng khi lắng nghe tiếng hát như tự tình trang trải của Ca sĩ Chi Huệ thì tâm hồn người viết lại chìm vào khung trời ngày cũ của “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” trước năm 1975 tại Sài Gòn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]