Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển Tập Thơ Quê Chiều

11/03/202416:56(Xem: 2075)
Tuyển Tập Thơ Quê Chiều


Que Chieu_HT Thich Dong Bon



MỘT TIẾNG DIỀU ĐÊM
ĐỘNG SUỐI THƠ


Đây là tập thứ 5 trong tuyển thơ Quê chiều của thi sĩ - thiền sư Thích Đồng Bổn. Đọc thi phẩm này, trong tôi chợt hiện lên hai hình ảnh - âm thanh hòa quyện: tiếng diều đêm vi vút và tiếng suối thơ dạt dào. Đêm vắng, trời dẫu trong, vằng vặc trăng cũng khó thấy cánh diều, chỉ tiếng sáo diều bổng trầm vọng lại. Phải tĩnh tâm, phải lắng hồn mới thấu được thanh âm đồng quê ấy. Còn suối thơ trong trẻo, lặng lẽ mà kiên tâm, đi xa để trở về, khởi nguồn cho sự hòa kết đạo - đời, tạo duyên cho bao gặp gỡ của những chân tâm truy tầm cái đẹp trong cõi tịnh.

Là tu sĩ, thi nhân thường bộc lộ ý hướng hoằng dương Phật pháp qua sáng tác của mình. Điều này cũng là hợp lẽ; bao người trước và cùng thời với tác giả đã, đang và sẽ làm. Nhưng đạt được tâm nguyện xét từ góc độ giao cảm, lan tỏa của thi tính, thi ngôn hay không, là chuyện khác. Cảm giác mục đích giáo huấn mà nhiều người xem trọng, với thầy Đồng Bổn, chỉ là hệ quả tất yếu, đến sau những ngẫm ngợi, phát hiện tự nhiên mà hàm chứa bao ý vị của thơ, của đời. Có được điều đó, một phần người thơ thường sử dụng cấu trúc ba phần: Nhập - Luận - Kết. Phần “nhập” là thi hứng khởi đi từ một sự vật, hiện tượng, tình huống,… trong đời sống. “Luận” là những ngẫm suy từ chính trải nghiệm của bản thân tác giả trong cõi đời, cõi đạo. “Kết” là bài học quyện hòa giữa đạo và đời, hướng đến sự khai tâm, đốn ngộ. Ví như bài Suối nguồn, từ mối quan hệ có tính tuần hoàn tự nhiên của suối con với Mẹ nguồn, từ sự tinh khiết của dòng nước đầu non, người thơ chứng nghiệm sự đánh mất bản nguyên của suối, cũng là của mỗi cá nhân, trong hành trình làm người, qua đó nhắn gởi một lời khuyên hữu lí, dễ thực thi “giác lộ”, giúp cho cái tâm được như nhất, an yên giữa dòng đời bất định, xô bồ:

Giáo pháp ấy gọi là tánh thủy
Sống hài hòa vốn dĩ an bài
Bầu đựng tròn, ống chứa thì dài
Sao cũng được, mỗi ngày pháp dược.

Ở nhiều bài trong thơ khác như Sách hay, Biển, Cái cân, Cây cau, Cây chuối, Kính lão, Quả bóng, Thảm chùi chân, Tầm nhìn, Lỗi lầm, Uống trà, Một thuở,… ta cũng gặp cấu trúc này. Lối kiến trúc “tam tài” đó làm nổi bật tính chất của dụ ngôn - những triết lí sống, những bài học quý ngầm ẩn dưới lớp vỏ ngôn từ tựa một thứ nước mát lành để muôn đóa hoa lòng khoe hương tỏa sắc. Đó là lối dụng ngôn theo kiểu “hai trong một”: thực hành thơ đồng thời dụng hành Phật pháp, Phật ngôn cất tiếng thành thi ngôn. Là kiểu “thi tại tâm” nên ý tình tự nhiên hiển lộ, tự nhiên cảm động lòng người.
Tám ba phần trăm bài thơ (58/70 bài) có nhan đề gồm một hoặc hai tiếng. Những tựa tối cô đúc, chỉ một từ, ghim vào tâm trí bạn đọc, gợi ở họ sự tò mò, khả năng đồng sáng tạo: Hỏi, Lắng, Mê, Kiếp, Mượn, Tạm, Nghĩa,… Một mà khơi dẫn tuệ giác tới vô cùng. Thi nhân sẻ chia với chúng ta bao liệu pháp quen thuộc mà hữu dụng để sống bình yên, ý nghĩa: phương thức giữ cho tâm hằng an giữa biển đời cuộn sóng; giải pháp tiêu trừ nghiệp chướng, gieo nhân lành gặt quả thiện, thoát khỏi vòng luẩn quẩn trả vay, giả tạm; cách buông bỏ những muộn phiền đeo đẳng, khắc chế tham sân, vượt bờ mê sang bến giác: “Quán nhân duyên mau dứt vọng mê lầm/ Cho sóng thức không vang ầm tâm thức” (Biển);… Đây cũng là biểu hiện sinh động cho tính hàm súc, nhiều dư ba, lắng đọng của thơ thấm đẫm ý vị Thiền.

Cái duyên khá ấn tượng của tập thơ là sự nhóm gộp các sáng tác cùng đề tài, cùng một trường ngữ nghĩa, trường liên tưởng, có sự giao thoa ý tứ, cũ mới giao duyên: từ cách đảnh lễ của Phật tử, đặc tính của cỏ cây, đồ vật đến chuyện Phật duyên, chuyện mười hai con giáp, những tâm sự về bản thân, về tha nhân,… Phương diện nào cũng có những phát hiện độc sáng. Điều đó cho thấy trường liên tưởng nhạy bén, cảm hứng thơ rất vượng của thi nhân. Chẳng hạn, với một yếu tố thời gian không xác định “khi”, thi sĩ đã quán chiếu đến bao điều: nỗi buồn trước sự vô minh, thói bạc tình, gánh nặng tuổi tác, lẽ sinh li tử biệt, hợp tan (Buồn khi); sự chấp nhận nghịch cảnh, một lòng với lí tưởng để trưởng thành trong đời, trong đạo (Dẫu khi); ý hướng dưỡng tâm luyện chí, nỗ lực tìm hạnh duyên cũng chính là tìm kiếm bản lai diện mục của mình (Đợi khi, Hỏi khi); niềm hi vọng về một kết quả viên thành, dứt khỏi bao ràng rịt cõi Ta bà với luân hồi sinh tử, với lợi danh phù phiếm (Mơ khi); tâm trạng hoài nhớ một quãng đời dĩ vãng để an yên trong hiện tại và vững bước trên con đường phía trước (Nào khi, Ngẫm khi, Nghĩ khi); sự ưu tư, trăn trở trước tuồng ảo hóa, lẽ phù sinh, rồi tự răn, tự quyết để tự do tự tại, an lạc với lựa chọn của mình: “Ở trong thế giới của thiền/Mà nhìn vũ trụ khởi duyên niết bàn” (Ngỡ khi, Nhỡ khi, Thấy khi, Thoảng khi, Từ khi),… Tương tự là những suy ngẫm từ tập tính để từ đó liên hệ đến cốt cách, phẩm hạnh của con người ở cả hai giới nam và nữ. Một chút siêu hình nhưng vẫn hữu lí bởi chứng nghiệm của người trong cuộc. Bao nhiêu điều đặt ra cho độc giả qua không ít trạng huống đời - đạo, đời - thơ mà nhân vật trữ tình Thấy - Hỏi - Ngẫm - Nghĩ… Cảm giác như dẫu ở đối tượng, cảnh huống nào, thi nhân cũng còn vương nợ với tha nhân nhiều lắm. Một bè lau sang bến, một lối nhỏ giữa đời, một bóng mát cho lữ khách dặm xa, một bài tập cho chúng sinh sửa tâm, dưỡng tánh đến với thiện duyên. Đó cũng là ý nghĩa tích cực của thơ, của đạo, vượt khỏi sự hữu hạn của câu từ, một xác tín cho sự dung hòa hai nhân trí: tu sĩ và thi sĩ. Sự đa dạng đề tài, cảm hứng là minh chứng về sự mở rộng tâm không để đón nhận những vang động của đời, lọc qua lăng kính đạo, để cho thơ cất lời: “Vượt lên ngôn ngữ văn tự ấy/ Muôn ngàn tuệ giác vẫn lặng thinh” (Nhưng khi).

Đồng hành với những nẻo đường tu, những suy nghiệm của tác giả, ta dễ dàng tri nhận hình tượng thiền sư - thi sĩ của Thích Đồng Bổn trong thi phẩm này. Đó là tâm thế của người bước đến cửa Không, vui duyên đạo cùng mõ sớm chuông chiều, vững lòng trên con đường đã chọn. Dẫu có buồn vì nhân tình thế thái, vì dâu bể phôi pha, vì tuổi già bệnh tật, nhưng không hề thấy sự than thân trách phận. Thấu suốt chữ “tùy duyên”, nên trên tất cả vẫn là tiếng lòng thiết tha hướng đến đạo, đến đời, để cho tốt đời đẹp đạo, đời đạo vẹn toàn: “Đời hanh thông, đạo mới xiển dương” (Kỉ niệm). Đó là một cái tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến. Với quan niệm, tâm thế sống “tùy duyên”, thuận theo lẽ thiền để vượt qua vòng đau khổ, người thơ đã có được sự an yên, thong dong, tự tại trong “duyên đạo”:

Tan thì cứ để nó tan đi
Thị phi cũng vậy khổ làm gì
Hạnh phúc vui buồn rồi trôi hết
Thôi kệ, mặc lòng nghĩ đến chi!
(Tan trôi)

Như đã nói ở trên, thầy Đồng Bổn không dụng tâm thơ hóa những triết lí uyên áo của Phật giáo. Sự rung động hồn thơ trước hết đến từ những nghĩ suy, đắn đót trước phận người, nỗi mình. Cõi đạo là cái lí, ở ngôi trên; còn cõi đời, cõi thơ là cái tình, là phần đời lắm nỗi. Không ít bài thơ thể hiện tâm trạng lưỡng phân rất con người, rất nghệ sĩ của thi nhân. Tôi, và có thể nhiều độc giả khác, sẽ ấn tượng với những câu thơ lệch chuẩn như thế - một chút Tản Đà muốn làm thằng Cuội chốn cung Hằng, vừa thoát tục vừa vấn vít nghiệp duyên trần thế. Những dòng thơ lưỡng phân cho thấy hành trình tự thức ngộ chẳng mấy dễ dàng của người trong cuộc về lẽ sống, ý nghĩa đích thực của mỗi cá nhân:

Hỏi khi lên gặp chị Hằng
Xin cho ở tạm lầu trăng vài đời
Chờ khi Thánh chúng rước mời
Ra đi xin tạ đôi lời tri ân...
(Hỏi khi)

Để rồi:

Đêm về vằng vặc ánh sao
Thấy mình rơi rụng trên cao mấy tầng.
(Kiếp)

Bởi thế mà nhân vật trữ tình thường có tâm trạng đắn đo, cân nhắc giữa hai cõi trần - tiên, hai cách hành xử: quay lưng thoát tục và hành đạo giữa đời:

Nghĩ đi tính lại ở cõi này
Chẳng đi đâu nữa trụ tại đây
Bây giờ, thực tại là mãi mãi
Nghĩ là tưởng tượng có gì sai!
(Nghĩ khi)

Và cuối cùng đi đến xác quyết:
Quay về tiếp quãng đường lành
Không quay về để tìm danh vị đời
Bước ra được khỏi trò chơi
Nguyện vào nhà Phật lên đồi hoa tâm.
(Quay về)

Tu tập, hành xử phải đạo là một cách trở lại cái “bản thiện”, cái “tự tánh” của con người, để sinh linh thoát khỏi thống khổ của bể vô minh, bến ái tình, lẽ phù sinh vô thường hòng an nhiên, thấu suốt trên đường giác ngộ - “nẻo về” của mình: “tâm hòa tánh thuận để xa luân hồi” (Nào khi).

Tập thơ tái hiện cả một quãng đường từ thuở ấu thơ hồn nhiên vô tư lự giữa làng quê yên bình đến tuổi gần thất thập, giữa ồn ào phố thị, đã thức ngộ lẽ vi diệu của đạo, cái tạm bợ của đời, đã dọn lòng thanh tịnh để hướng vọng Ngày Về của thi nhân: “Nương trong pháp Phật ngõ về an vui” (Phù hợp).
Không nặng nề, phô diễn Phật ngữ, lời lẽ chân tình, giản dị, cận nhân tình,… Tác giả cũng không hề che giấu tâm nguyện mượn thơ để lan tỏa đạo, gởi trao những thông điệp gần gũi, nhiệm màu, để san sẻ ân tình với muôn nơi. Người nghệ sĩ ngôn từ đã kiến tạo cây cầu bền đẹp nối hai bờ đời - đạo, kết nối những tấm lòng từ ái, tạo một kênh hữu hiệu để giao cảm những chân tâm đồng điệu.

BÙI THANH TRUYỀN





pdf






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/07/2021(Xem: 5317)
Kính dâng Thầy bài thơ khi chợt nghiệm ra mình có một thói quen rất tốt là thích nghe pháp thoại và đọc sách và chính nhờ 254 bài pháp thoại của Thầy trong mùa đại dịch mà tốc độ của niềm tin Phật Pháp lại làm tăng giá trị thói quen con có thế nên những sự việc tiêu cực xảy ra trong quá khứ và hiện nay trong cuộc sống đã không làm con chùn bước . Kính đa tạ Thày và kính chúc sức khỏe Thầy , HH Thói quen tốt không tự nhiên sinh ra mà có ! Là chuỗi rèn luyện, tu dưỡng hằng ngày Phải chăng cần ...niềm tin không chuyển lay ? Giúp cơ hội sống theo cách mình mong muốn ! Đọc sách, nghe pháp thoại thời gian nào phí uổng Tốc độ niềm tin ...giúp tìm ra tiếng nói bản tâm Định hướng mục tiêu ...không thể sai lầm Thấu hiểu giá trị nên cải tiến liên tục !
04/07/2021(Xem: 4595)
Thật đầy đủ những lời trao đổi Gởi Ai thầm tâm sự mở khơi Tận phút giây nói tràn tâm thái Diệu Tâm! Em hiện hữu trên đời!.. Nếu si cuồng đánh mất Bản Tâm| Mất đi Báu Vật quá tuyệt vời! Bao tháng năm quay cuồng chới với, Chợt Em reo thức tỉnh chơi vơi!
02/07/2021(Xem: 4947)
Tâm lệch lạc sống đảo điên nghiêng ngã Tâm dối lừa thì đời sống bất an Tâm ghét ghen sống hận thù chất chứa Tâm tham lam đốt Huệ Mạng rụi tàn Tâm đặt trên ngực để yêu thương và: Đặt trên tay mà đở đần người khác Đặt vào mắt nhìn nổi khổ tha nhân Tâm trên chân chạy đến ai cùng khổ Tâm trên môi an ủi bất hạnh cần Tâm ở tai biết nghe lời than trách Chấp nhận lời góp ý của mọi người Tâm đặt trên vai biết mình trách nhiệm
30/06/2021(Xem: 7399)
Kính SP, cùng chị nhà Hạnh Giải, Pt Quảng An gởi bài thơ Cảm Tác Tưởng Niệm Nhà Thơ Tánh Thiện ra đi tròn năm chia sẻ đến cùng chư vị, chư Thi nhân và chuyển đến chị nhà Hạnh Gỉải ( cách đây chị có báo chị qua Cali lo việc Hồi Tự cho Tánh Thiện ). QA với tấm lòng quí thương trân trọng chia sẻ cùng chị và đôi bên gia quyến niềm phân ưu Bạn Thơ nơi "Cõi Thong Dong" Xin mời chấp bút họa dòng thơ hay Trước kia nhớ lời dạy Thầy Cùng nhau thêu dệt hăng say điệu vần
30/06/2021(Xem: 8145)
Kính dâng Thầy bài thơ khi biết được bao người vẫn âm thầm miệt mài phụng hiến cho đại chúng trong nhiều phương diện mà không nhận được một lời tán thưởng vì dường như càng ngày nhân loại càng kiệm lời cảm ơn !!! Kính chúc sức khỏe Thầy , HH Có đôi lúc ...khi nhận cảm ơn ấm lòng chi lạ ! Dù biết rằng... chi mà khách sáo đáp đền Nhưng ...thân ái tương quan dần mãi tăng thêm Tựa như khi cỗ vũ lực sĩ ... mau đến đích ! Cũng thế ... Tình người thật trân quý giữa thời đại dịch ! Hãy trao nhau lời thân thiết cảm ơn Khi hợp tác không thuận ý ...cắt bớt giận hờn Chút vị kỷ cô đọng lại từ bao đời tập khí ! Biết bao người đang miệt mài hoàn thành thiện chí ! Trên con đường phục vụ mọi chúng sinh Từ khoa học, nhân văn, truyền thống tâm linh Xin khuyến khích ... đừng thờ ơ lời tán thưởng Bạn ơi ! Trong tĩnh lặng tiếng vang càng âm hưởng Phong tỏa giản cách ... khích lệ nhau cần trưởng dưỡng ! Đừng đợi nghe ai tin đến ...chia buồn nhớ tưởng !! Huệ Hương
29/06/2021(Xem: 6274)
Đệ Tử Nối Pháp của Sư Phụ Chơn Kiến Kính dâng Sư Phụ Tịnh Tuệ Thích Nguyên Tạng Giờ con mới biết Sư Phụ Thầy Hèn chi Thầy cũng giỏi trời mây! ( Thích Nguyên Tạng ) Đệ Tử chân truyền là đây Trời Úc danh vang vị Thầy chân tu Đọc Tiểu Sử hoạ thơ Tưởng Niệm Thầy "Trừng Lộc" đức hạnh cửa Thiền ( là Ngài Chơn Kiến ) Bổn Sư Hoà Thượng Minh Quang Già Lam Vạn Đức chốn đàng giồi trau Đồng Chơn xuất gia theo hạnh nguyện Miệt mài Kinh kệ sáng bừng tâm Trình kệ ứng Pháp thậm thâm Ấn Minh Pháp Hiệu đúng tầm căn cơ
27/06/2021(Xem: 7894)
Chúc mừng Du sĩ Tâm Nhiên DIỆU TÂM CA tựu thành thiên thơ vàng. Mười năm vô trụ lang thang Hoa tâm nở khắp chùa đàn thập phương Rượu bầu thơ túi hành hương Rong chơi ngựa sắt hoang đường Bắc Nam Chẳng nâu sòng, chẳng già lam DIỆU TÂM CA ngát hương trầm thiền môn! Ngần ngần thơ tụng Thế Tôn Bài ca Diệu Pháp xanh hồn vô biên! Chúc mừng Thi sĩ Tâm Nhiên Trường ca lục bát Lẽ Huyền Ngôn Không DIỆU TÂM CA mịch mịch hồng Trăng sao rực sáng cánh đồng Như Lai.
27/06/2021(Xem: 5503)
Mất thì giờ mấy chuyện không đâu Sao không thưởng thức Đạo nhiệm mầu Còn bao hữu ích cần thu thập Phát huy sở học mới thâm sâu! Email chỉ đánh cười "hi hi" Hành hoạt trượng phu cái kiểu gì?! Chuyện đà meo mốc cho bùng khí Hiện tại không màn việc liễu tri Chấp không chấp có rơi nhị thuyết Học Phật biết rõ: thực dụng quyền Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt tu Pháp chấp Viên Giác Trí màu thật uyên nguyên
26/06/2021(Xem: 7613)
Chào hội ngộ bình an sau đại dịch Những hoa sen hồ tịnh bốn phương trời Ta về đây cùng nhau chung vui Dây thân ái trăm năm tình vẫn mới Chào tám hướng những Gia Đình Phật Tử Ta Đoàn Áo Lam tiến bước lên đường Tiếng hát họp đoàn bốn phương mùa hội cũ Vọng âm hoài sao mãi quá thân thương Thầy giáo hạnh, bác gia trưởng, đàn chị, đàn anh Những oanh vũ thiếu niên cùng thiếu nữ Vững tinh tấn sân chùa Bi-Trí-Dũng Vẫn hạnh lành dòng lịch sử sang trang Những mái đầu một thuở sen xanh Đường thế hệ giao mùa chừ bạc trắng Bao người cũ đã đi vào im lặng Hoa vô ưu hạnh ngộ nở trên cành
25/06/2021(Xem: 6326)
Bình minh thức dậy thưởng thiền trà Lặng lẽ hiên chùa mây trắng qua Hớp ngụm trà thơm tai lắng tiếng Ngửi làn khói mỏng mắt nhìn hoa Tinh thần khoan khoái nghe Viên Giáo Ý chí thảnh thơi ngắm Phật Đà Vạn vật vô thường bong bóng nước Vườn thiền hoa nở hạt sương sa…!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]