Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

25_Thầy Tuệ Sỹ Tự Tại Đến Đi

25/10/202313:56(Xem: 2338)
25_Thầy Tuệ Sỹ Tự Tại Đến Đi

on tue sy-tam nhien

THẦY TUỆ SỸ
TỰ TẠI ĐẾN ĐI

Bài viết của Cư Sĩ Tâm Nhiên
Do Phật tử Diệu Danh diễn đọc

 

 

 

Thi ca và tư tưởng có sức mạnh phi thường, vượt qua cả mấy triệu nghìn năm, song hành cùng Thi nhân, Đạo sỹ, Thiền sư từ muôn thuở, muôn nơi đi về trên mặt đất, trần gian này.

 

Bằng cách vô công dụng hạnh, họ âm thầm, tha thiết chuyển hóa đủ loại trình độ, vô số căn cơ đang quờ quạng, rối mù, bao phủ trong bóng tối u minh, đang quằn quại, khổ đau trong sinh tử luân hồi...

 

Luân hồi sinh tử trùng trùng của thập loại chúng sinh, biết vươn mình lên trên tuyệt đỉnh hồn tâm linh tỉnh thức.

 

Tỉnh thức ngay bây giờ, ở đây để cùng về quê nhà, Cố quận, nơi chốn miền hoan hỷ địa trong tâm hồn, ngay giữa lòng trong trẻo, long lanh, lấp lánh nụ cười thanh tịnh của mỗi một người trong tất cả chúng ta.

 

Thanh tịnh nụ cười trổ hoa, sau cuộc Hòa âm cùng Thiên lý độc hành với người thi sỹ kỳ tuyệt ấy, chúng ta quy hồi Cố quận, trở về Thực tại hiện tiền ngay bây giờ, ở đây, vì thấy được lẽ huyền vi của cuộc sống như Tuệ Sỹ thi nhân đã thấy diệu kỳ, mới lạ:

 

“Đời sống tồn tại trong từng sát na và trong từng nguyên tử nhỏ bé, thường trực là cảnh giới huyền vi, bất tư nghì...”

 

Bất khả tư nghì là không thể nghĩ bàn chi được về cuộc đời, cuộc đạo, về cuộc sống hay cuộc chết. Sống và chết giao thoa nhau trên cung cầm miên viễn, thiên thu.

 

Thiên thu là Trí tuệ, là bản thể Vô sinh, bất diệt, chỉ cho Tự tánh thanh tịnh, Tánh Không, còn thân xác sống chết này là hiện tượng, như bọt nước nổi trôi trên đại dương bản thể kia. Vì thế, khi bọt nước vỡ tan thì nhập vào lại đại dương chứ chẳng mất đi đâu cả, như Tuệ Trung Thượng Sỹ cất tiếng ca Sống chết nhàn thôi vậy:

 

“Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh

Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt

Sanh tử xưa nay vốn Tánh Không

Thân hư dối này rồi cũng diệt

 

Phiền não Bồ đề bỗng mất tiêu

Địa ngục Thiên đường tự khô kiệt

Lửa phỏng nước sôi thoắt mát liền

Núi kiếm rừng đao chốc gãy hết

 

Thanh văn ngồi thiền ta không ngồi

Bồ tát nói pháp ta nói thiệt

Chết là dối chết sanh dối sanh

Bốn đại vốn không nương đâu dậy

 

Chớ như hươu khát đuổi bóng nước

Nắm đông bắt tây không ngớt chạy

Pháp thân không lại cũng không qua

Chân tánh chẳng phải cũng chẳng quấy

 

Đến nhà thôi chớ hỏi đường chi

Thấy nguyệt tìm gì ngón tay ấy

Kẻ ngu sống chết mãi lo âu

Người trí rõ thông nhàn thôi vậy”

 

Kẻ mê vọng thì cứ mãi lo âu, sợ hãi chuyện sống chết, còn người trí tuệ có mắt sáng nên nhìn thấu suốt lẽ sinh tử nên cứ thản nhiên. Bài thơ này do Trúc Thiên dịch Việt quá tuyệt vời. Vời tuyệt hơn nữa, Lý Việt Dũng giảng giải đại ý:

 

“Vì nhất thiết duy tâm tạo, cho nên khi vọng tâm khởi là sinh tử nẩy sinh, từ đó hình thành nhị kiến đối lập, nào là Bồ đề - phiền não, Thiên đường – địa ngục, chân vọng, nhưng thật ra tự tính của sinh tử cũng vốn là không. Do đó, khi vọng niệm dứt thì mọi mê tưởng cũng tan theo, mọi phiền não đương nhiên cũng không còn.

 

Cho nên chỉ cần thấy Tánh mà không cần thuyết pháp tọa thiền, bởi vạn pháp vốn tự nhiên nhất như vô phân biệt. Lúc khởi tâm tìm cái Chân thì đã là Giả (hư vọng) rồi, vì chân vốn đang ở nơi cái đương xứ, tức ngay nơi sinh tử thấy ra thực tính là đã Vô sinh.

 

Vậy người mê sợ sinh tử, luôn chạy đôn chạy đáo tìm liệu pháp đối trị, tìm cái Vô sinh, chẳng khác nào đang ở trong nhà mà lại cố tìm đường để về nhà. Đó chẳng qua chỉ là hành động hồ đồ của con hươu khát khô cổ, bôn ba chạy tìm bóng nước trong ánh nắng trên sa mạc, còn người giác coi thường sanh tử, vì trong sanh tử vốn đã đầy đủ Tính Chân...”

 

Đó là cái thấy của hàng Bồ tát, bậc Thiền sư đã thấy được Chân Tánh, như cư sỹ Bàng Uẩn và cả gia đình vợ con ông đã tự tại trước cái chết, đến đi vô quái ngại liền.

 

Một hôm đang cày ruộng, bất thình lình Bàng Uẩn nói với con gái: “Lát nữa cha đi nghe”. Linh Chiếu đang cuốc đất vừa nghe xong, cầm cuốc nhanh trí thị tịch trước, tiếp theo là mẹ, anh trai cũng vui vẻ, nhẹ nhàng đi, huống chi Tuệ Sỹ bậc Long Tượng vô úy:

 

Bàng Uẩn xế hôm xưa đang cày ruộng

Nói con gái biết: Cha quy thiên

Buông cuốc Linh Chiếu dành đi trước

Bàng Uẩn cười vang thị tịch liền

 

Sống chết trùng trùng do duyên khởi

Đó là con mắt của Tánh Không

Tuệ nhãn thấy ra tường tận thế

Nên đến hay đi cũng nhẹ lòng

 

Lão cư sỹ ấy làm được vậy

Huống gì Long Tượng bậc Thiền sư?

Ứng thân thọ bệnh nhằm khai thị

Cho kẻ phàm phu thấu đại từ

 

Đại từ đại bi đại trí dũng

Thì không bao giờ chết được đâu

Chỉ ẩn chút thân gầy bèo bọt

Còn trí tuệ kia vẫn nhiệm mầu

 

Mầu nhiệm suốt cuộc sống như Thiền sư đã sống thì cũng nhiệm mầu khi cuộc chết đến, cho nên khi nghe tin Thầy Tuệ Sỹ bị bệnh, du sỹ có về thăm vào đầu xuân 2022 và gần đây nhất, tháng 7. 2023 cùng với Huỳnh Tấn Hạnh, Huỳnh Tấn Nghĩa đến vấn an Thầy đang an cư trong một tịnh cốc gần chùa Phật Ân ở Long Thành, Đồng Nai.

 

Hỏi và đáp tuyệt nhiên không còn cần thiết nữa, lặng yên chỉ nhìn nụ cười “Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng” của “Hạc gầy đỉnh tuyết” là cũng đủ nghe ra cả trời thơ đất mộng, rung cảm tận đáy lòng.

 

Thong thả, nhẹ nhàng, Thầy lộ vẻ thanh thản, an nhiên như không có bệnh tật gì. Biết là chút thân bèo bọt sắp bị tan rã thì cứ rã tan theo luật vô thường thế thôi. Hối tiếc gì, luyến lưu chi nữa giữa cuộc trăm năm thoáng chốc vèo qua như áng phù vân?

 

Thật ra, Thầy Tuệ Sỹ bị bệnh cũng giống như Đức Phật bệnh hay Duy Ma Cật bệnh vậy thôi: Đều là một Bài Pháp sống động, không lời mà mỗi một người trong chúng ta phải thấu hiểu ngay bây giờ và ở đây.

 

Hiểu thấu thì không cần phải cầu nguyện, cầu an chi nữa cả. Bởi lâu nay, chúng ta đã mặc nhiên tôn Thầy là bậc Thiền sư rồi mà Thiền sư thì tự tại, tự do trước lẽ còn mất, đến đi, sinh tử như Thầy đã từng nhắc nhở trên tinh thần vô úy:

 

Tất cả các bậc vô úy, không còn sợ hãi, chỉ có một con đường độc nhất phải đi là qua bên kia bờ của sự sống và sự chết. Qua bên kia bờ là chứng ngộ tính Tịch diệt của Niết bàn. Nơi đây chính là thế giới của cô liêu tuyệt đối…”

 

Tuyệt đối cô liêu - “Hương vị cô liêu là hương vị của Chánh pháp” - Cô liêu chính là bước đi kỳ cùng của bậc thượng thừa, Sư tử hống. “Vô sở tòng lai diệc vô sở khứ” - Không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu. Không chỗ trụ, không sở đắc, chẳng mong cầu bất cứ điều gì thì còn sợ hãi chi nữa phải không?

 

Đức Phật đúng 80 tuổi nhập Niết Bàn, còn Tuệ Sỹ năm nay cũng vừa độ 80 rồi. Hơn nửa thế kỷ đi qua cõi phù trần, đất bằng dậy sóng, đại dương sụp lở, núi sông tràn lấp ruộng đồng, cuồng phong sấm sét vỡ tan hoang, từng giáp mặt cận kề nhiều trận thập tử nhất sinh thật táng đởm kinh hồn...Thế mà nhà thơ đã vượt qua, vượt qua tất cả mọi chướng ngại, khó khăn, bằng chính nội lực, rực lửa hùng tâm tráng khí, phi thường.

 

Thương yêu diệu dụng, bùng vỡ hết tâm can, thần lực, dốc cạn năng lượng suốt bình sinh, dịch giải Tam tạng kinh điển, thiết tha đại nguyện chuyển hóa, bừng trổ kỳ hoa dị thảo, ngát hương những đóa hồng thi ca và tư tưởng. Bước đi kỳ cùng cuộc lữ, đi và đi và đi bộ giữa nhật nguyệt viễn du, đầm đìa gió sương, mưa nắng phiêu bồng:

 

Bóng tối sập mưa rừng tuôn thác đổ

Đường chênh vênh vách đá dọa nghiêng trời

Ta lầm lũi bóng ma tròn thế kỷ

Rủ nhau đi cùng tận cõi luân hồi

 

Khắp phố thị ngày xưa ta ruổi ngựa

Ngang qua đây ma quỷ khóc thành bầy

Lên hay xuống mắt mù theo nước lũ

Dẫm bàn chân lăn cát sỏi cùng trôi

 

Rồi ngã xuống nghe suối tràn ngập máu

Thân là thân cỏ lá gập ghềnh xuôi

Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu

Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi”

 

 Ôi chao! Một bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp kinh hồn. Nếu mai mốt, đột nhiên viên tịch thì Thầy vẫn bất tử với vẻ đẹp như thơ: “Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu. Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi”.

 

Trước cái chết, hầu hết đệ tử đều sợ sệt, hốt hoảng, lo âu, sầu bi lụy, nhưng Thầy vẫn điềm nhiên mỉm cười, sẵn sàng bắt tay với Tử Thần để qua chơi miền: “Thân sau ta vẫn bơ vơ bụi đường...” chứ không phải cõi Niết Bàn, Cực Lạc nào đâu.

 

Mầu nhiệm là cõi thơ văn Tuệ Sỹ, một thi nhân vô tiền khoáng hậu, thấu đạt suốt kim cổ, sau xưa...

 

Bữa đó, chúng tôi ngồi chờ Thầy quá đường xuống thì cũng gần 12 giờ trưa, giờ ngọ thiên rồi. Thầy phất tay áo nhẹ mỉm cười nói, nghỉ ngơi thôi.

 

Giờ Ngọ là giờ Zarathurtra xuống núi nhưng lại là giờ Nagarjuna lên núi, giờ Siddhartha Gautama nhập đại định và Thiền sư Thi sỹ thì đi vào tịch mặc, vô ngôn. Vô ngôn như Triết gia Heidegger: “Trong tư tưởng, mọi sự trở thành cô liêu và lững thững...”

 

Đứng bóng mặt trời, lặng im, lặng im, lặng im. Giờ phút im lặng nhất - “Trên tất cả đỉnh cao là lặng im” -  Phạm Công Thiện đã nói như thế và du sỹ chợt bàng hoàng nhớ lại, từ năm 1967 mới 24 tuổi, khi viết tác phẩm đầu tay Đại cương Thiền quán, Tuệ Sỹ đã thấy và nghe được sự Im lặng kia rồi:

 

“Chỉ có cái Im lặng mênh mang ấy mới chứa đựng được Thể LÀ – Nhưng Thể LÀ ấy bao giờ cũng trỏ vào Thực tại triển nở.

 

Bởi thế, Im lặng là để nghe tiếng nói bàng bạc của Thực thể. Vậy muốn tiến sát đến bên Thực thể thì phải tập sống trong cái Im lặng trước đã. Bồ Đề Đạt Ma chín năm Im lặng nhìn vào vách.”

 

Như vậy, phải chăng, Im lặng chính là bài học đầu tiên và cuối cùng mà bậc Đại sỹ muốn truyền cảm hứng lại cho cõi tồn sinh, sau mấy chục năm trời lênh đênh theo vận nước, theo heo hút muôn trùng cuộc lữ?

 

“Từ nguyên sơ đã một lời không nói...”

 

 

Tâm Nhiên

(Đồng Nai 24. 10. 2023)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/08/2010(Xem: 9012)
Bảy tình (thơ)
16/07/2010(Xem: 12591)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
28/06/2010(Xem: 25451)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 8059)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
16/05/2010(Xem: 6672)
Thầy từ phương xa đến đây, Chúng con hạnh ngộ xum vầy. Đêm nay chén trà thơm ngát, Nhấp cho tình Đạo dâng đầy. Mừng Thầy từ Úc tới thăm, Đêm nay trăng sáng ngày rằm. Thầy về từ tâm lan tỏa, Giữa mùa nắng đẹp tháng Năm
10/03/2010(Xem: 10218)
Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Hòa Thượng thì phần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịch thuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, còn ít hơnnữa đối với cả một đời Ngài đã bỏ ra phục vụ đạopháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhaunhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài.
10/03/2010(Xem: 7743)
Ba La Mật, tiếng Phạn Là Pu-ra-mi-ta, Gồm có sáu pháp chính Của những người xuất gia. Ba La Mật có nghĩa Là vượt qua sông Mê. Một quá trình tu dưỡng Giúp phát tâm Bồ Đề. Đây là Bồ Tát đạo, Trước, giải thoát cho mình,
10/03/2010(Xem: 12240)
Tên Phật, theo tiếng Phạn, Là A-mi-tab-ha, Tức Vô Lượng Ánh Sáng, Tức Phật A Di Đà. Đức A Di Đà Phật Là vị Phật đầu tiên Trong vô số Đức Phật Được tôn làm người hiền. Ngài được thờ nhiều nhất Trong Ma-hay-a-na, Tức Đại Thừa, nhánh Phật Thịnh hành ở nước ta.
01/10/2007(Xem: 7547)
214 Bộ Chữ Hán (soạn theo âm vận dễ thuộc lòng)
20/10/2003(Xem: 31282)
Tình cờ tôi được cầm quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của Mặc Giang do một người bạn trao tay, tôi cảm thấy hạnh phúc - hạnh phúc của sự đồng cảm tự tình dân tộc, vì ở thời buổi này vẫn còn có những người thiết tha với sự hưng vong của đất nước. Chính vì vậy tôi không ngại ngùng gì khi giới thiệu nhà thơ Mặc Giang với tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca. Mặc Giang là một nhà thơ tư duy sâu sắc, một nhà thơ của thời đại với những thao thức về thân phận con người, những trăn trở về vận mệnh dân tộc, . . . Tất cả đã được Mặc Giang thể hiện trong Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trong sáng và xúc tích, tràn đầy lòng tự hào dân tộc khi được mang cái gène “Con Rồng Cháu Tiên” luân lưu trong huyết quản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567