Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ta Bà Hát (Tuyển tập Thơ của Tát Bà Ha, bút danh của HT Thích Đồng Bổn)

19/05/202308:53(Xem: 1877)
Ta Bà Hát (Tuyển tập Thơ của Tát Bà Ha, bút danh của HT Thích Đồng Bổn)
Ta Ba Hat-ht dong bon


Lời giới thiệu

(Nhân đọc tập thơ Ta Bà Hát
của Thầy Thích Đồng Bổn)




Với cái nhìn của Phật giáo, cõi ta bà là một khái niệm về thế giới. Trong đó, không chỉ có một thế giới đang sống, mà gồm có cả ba ngàn địa thiên thế giới, trong giới hạn hóa độ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Ta Bà (s, p: sahā, j: saba, 娑婆): là Sa ha (娑訶), Sách ha (索訶), là nhẫn (忍), nói cho đúng là Ta Bà Thế Giới (s, p: sahā-lokadhātu, 娑婆世界), tức thế giới chịu đựng (nhẫn độ, nhẫn giới), thế giới mà đức Thích Ca giáo hóa. Nó còn được gọi là Nhân gian giới (人間界, cõi con người), Tục thế giới (世俗界, thế giới phàm tục). Chúng sanh ở trong thế giới này chịu đựng các phiền não, vì vậy mới có tên là thế giới chịu đựng. Từ này còn được dịch là Tạp Hội (雜會) hay Tập Hội (集會). Nguyên ngữ của từ tập hội là sabhā, muốn ám chỉ sự tập hội phức tạp của các tầng lớp như con người, trên trời, Sa Môn, Bà La Môn, Sát Đế Lợi, cư sĩ, v.v. Người ta cho rằng nguyên lai từ sahā cũng phát xuất từ sabhā, là thế giới có nhiều loại người khác nhau làm đối tượng hóa độ của đức Phật Thích Ca.

Thiền sư Chơn Không (眞空, 1045-1100) của Việt Nam có bài thơ rằng: “Diệu bổn hư vô minh tự khoa, hòa phong xuy khởi biến Ta Bà, nhân nhân tận thức vô vi lạc, nhược đắc vô vi thỉ thị gia (妙本虛無明自誇、和風吹起遍娑婆、人人盡識無爲樂、若得無爲始是家, Diệu bản thênh thang sáng tự khoa, gió hòa thổi khắp cõi Ta Bà, người người thảy biết vô vi lạc, nếu đạt vô vi mới là nhà).” (Theo Phatgiao.org.vn)
Tựa đề tập thơ của thầy Đồng Bổn lựa chọn là Ta Bà Hát gợi cho chúng ta nhớ đến cụm từ “Tát Bà Ha” trong chú đại bi có nghĩa là “vô trú”.
Ta bà ha (Soa ha, xoa ha) có 6 nghĩa. Bất kỳ chữ này xuất hiện ở bài Chú nào cũng có đủ 6 nghĩa này:
1. Thành tựu; 2. Cát tường, tốt lành như ý; 3. Viên tịch. Khi các vị Tỳ kheo xả bỏ báo thân hoặc nhập Niết bàn thì được gọi là viên tịch. Nhưng ở đây, viên tịch có nghĩa là công đức của hành giả hoàn toàn viên mãn; là đức hạnh của hành giả đạt đến mức cao tột cực điểm; 4. Tức tai, nghĩa là mọi tai nạn đều được tiêu trừ; 5. Tăng ích, tăng trưởng lợi lạc; 6. Vô trú. Theo kinh Kim Cang, vô trú nghĩa là không chấp trước, không vướng mắc hay bám chấp một thứ gì cả.

Chúng ta đừng nên trụ vào các niệm tham, sân, si, mạn, nghi. Nếu chúng ta có các tâm niệm trên thì phải nhanh chóng hàng phục chúng, chuyển hóa chúng để tâm mình không còn trụ ở một niệm nào cả. Hàng phục, chuyển hóa được những tâm niệm chúng sinh ấy gọi là vô trú.

Thế giới này là thế giới của ngũ uẩn, cuộc sống này là cuộc sống của ngũ uẩn. Do bị phiền não và vô minh nên tâm bị ngũ uẩn chi phối, dẫn dắt tạo ra những thế giới đầy những lẽ vô thường, bất an. Sự sống của các thân ngũ uẩn là sự sống của tham, sân, si; khi tham sân si có mặt thì thân ngũ uẩn vô thường sẽ có mặt, ngược lại khi tham sân si được đoạn diệt thì thân ngũ uẩn vô thường này cũng sẽ được chấm dứt.

Sự chấp thủ ngũ uẩn là phiền não, là khổ đối với chúng sinh. Đó cũng chính là sự lẩn quẩn trong vòng sanh, già, bệnh, chết, được - mất, có - không, thương - ghét, vui - buồn,
Tập thơ mở đầu bằng bài "Từ biệt":
"Rồi một tháng với anh Ta Bà Hát
Mê hay giác liệu bạn có được chỉ
Hẹn chờ đôi ba bận chẳng thèm đi
Vẫn tại vị nơi Ta bà vay mượn"

Thi sĩ, hành giả cất lên những tiếng hát thâm trầm. Những tiếng hát của giai điệu mi thứ man mác. Những tiếng hát ẩn tàng ngay trong từng động tác đi, đứng, nằm, ngồi; của những thái độ ra vẻ chú tâm như nghe, nhìn, nghĩ, nhớ, kể cả buông bỏ. Hát lên bằng tiếng của gió, mây, rừng, núi, dòng suối, con sông... Nhưng, tựu trung, những tiếng hát ấy âm thầm, lặng lẽ như từng phiến đá hoang vu, lăn lóc bên khe suối hiền hòa. Thơ tượng trưng cho cái đẹp, và là phương tiện tôn vinh con người. Thi sĩ, hành giả đã mượn

thơ để khẳng định mình, bằng chính sự làm chủ những niềm vui và nỗi đau trong cuộc đời này:
"Nhìn trong mưa buốt lạnh căm/ Bếp hồng ấm lại tình thâm phận người/ Nhìn về đồi núi mây trôi/ Chuông kêu tỉnh mộng như lời kinh trưa" (Nhìn); "Thấy nhân biết quả sẽ ra sao/ Vậy gieo giống tốt quả càng cao/ Thấy quả sợ nhân không kết nữa/ Người trí khéo làm sáng biết bao!”(Thấy); hoặc “Tánh nghe muôn thuở vẫn hằng thường/ Lăng Nghiêm trì tụng toả tịnh hương/ Cảm thấy cõi đời sao bé nhỏ/ Nguồn tâm rộng mở cả mười phương” (Nghe).
Có lúc, bằng tâm hồn thi sĩ, tác giả đã nghĩ: “Tôi cố nghĩ mình đến nguồn cội khổ/ Khổ thân đau đến thế chẳng lo buồn/ Khổ ân tình tâm trí đổi thay luôn/ Khổ thế nhân, giận sân không dừng được” (Tôi nghĩ); “Ở trong nhà cửa kẻ thế gian/ Cơm ăn áo mặc chạy lăng xăng/ Tất bật tối ngày lo sinh kế/ Chẳng nhận ra mình lúc khó khăn” (Tôi ở)…

Do vô minh chúng ta nhận thức sai lầm về thế giới xung quanh, nhất là bản ngã. Vô minh là yếu tố đầu tiên trong nguyên lý Duyên khởi với 12 nhân duyên, làm con người còn sa vào luân hồi. Vô minh cũng là một trong ba phiền não, và khâu cuối cùng là mười trói buộc.
Khi gặp phiền não, tác giả đã ứng dụng những phương cách quán chiếu nhân quả, dùng trí tuệ Bát nhã quán chiếu năm uẩn vốn không. Lúc ấy, tâm thế của hành giả bộc lộ qua niềm tin, kết tụ từ bao năm tu học, mong muốn trở thành
người đệ tử trung thành của đức Phật: "Tôi tin có Phật ở bên mình/ Và tin mãn số sẽ vãng sinh/ Tin vào nhân duyên và phúc báo/ Tin mình mãi mãi có niềm tin...” (Tôi tin).

Theo Thiền sư Thích Thanh Từ, Liễu tức là liễu ngộ; người liễu ngộ thì nghiệp chướng xưa nay là không thật, có thể chuyển được. Người chưa liễu ngộ nhất định phải đền trả nợ trước.

Tác giả tự xem những giấc mộng, đau buồn, công danh, ân tình, tiền bạc, của cải, tiếng đời thị phi, cho đến cái Có, cái Ngã... đều là huyễn hoặc, không thật, cần phải buông bỏ: "Buông tay bước tiếp chặng đường dài/ Nắm giữ bao giờ thấy bản lai?/ Khi ngộ thì ngay nơi trước mắt/ Lúc mê thăm thẳm bóng xa bay" (Tôi buông).

Tâm và thân đều do nhân duyên tạo nên. Nên thân là vật vô thường; tâm cũng không có thực thể, và thường thay đổi. Tâm thay đổi như dòng nước đang trôi, như ngọn nến đang cháy. Nếu tâm vui thú với những diễn biến trên đời này, sẽ sinh ra sự u mê, khổ não. Nếu tâm vui thú với đạo, sẽ sinh ra lòng vui thú với đạo. Nên người tu Phật không tìm bên ngoài, mà tìm về dọn dẹp tâm mình, dọn dẹp những loạn tưởng để tâm trong sạch. "Gánh nỗi đau của bao người cùng khổ/ Dụng tình thương xóa dịu bất hạnh chung/ Dụng tâm Từ ban rải khắp mọi vùng/ Bạn cùng tôi tìm về trời Bát nhã" (Gánh); “Gieo hạt giống tâm Bồ đề chân ái/ Giúp cho mình nhận lại Phật tánh xưa/ Giúp cho ai cần có chỗ nương nương thừa/ Cùng sám hối tựa nương về bậc thánh” (Gieo).
Đức Phật dạy rằng: "Mỗi người hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp". Đời sống không phải bao giờ cũng gặp những thuận duyên, dễ dẫn đến tâm lý và thái độ cầu an hoặc nương tựa... Cuộc đời còn có cả những nghịch duyên thử thách. Nhưng không phải là bế tắc, tuyệt vọng mà luôn có những tia sáng le lói cuối đường hầm. Có người trải tâm ra như chiếc cầu thân ái, nối kết người với người, nối kết niềm tin... Có người xem tâm mình như biển, sẵn sàng đón nhận những con sông nghe, nhìn, nói...nhẹ nhàng bình đẳng vì không còn tên riêng nữa, chỉ có vị mặn dung hoà. Là người tin sâu nhân quả luôn tỉnh thức để gieo nhân và trả quả. Thông qua thân tứ đại (thực ra là thất đại, bảo gồm Không đại, Kiến đại, Thức đại), có lúc tác giả lại để cái tâm thi sĩ làm chủ. Ông đã nhìn và thấy: "Tôi nhìn qua khe cửa thầm mơ/ Tháng ngày lẩn thẩn mộng nàng thơ/ Chưa già lẩm cẩm đòi đi trước/ Đành giữ tâm tình sống lửng lơ" (Tôi nhìn). Và: “Nghe ngóng đêm dài tiếng bước ai/ Chờ tìm gõ cửa đón heo may/ Nghe giọng nhẹ đều như quyến rũ/ Gối đầu thầm ước vọng tương lai" (Nghe). Nhưng trái tim, tâm của Người con Phật đã điều chỉnh, bắt đầu với những khởi đầu mới: "Xong một bận rồi chọn đời ẩn dật/ Trả nợ thêm vài chữ nhẫn nhục cười/ Tránh duyên đời chọn sơn thuỷ thảnh thơi/ Đợi đến lúc đến thời duyên tri ngộ" (Khởi đầu mới).
Duyên là một thuật ngữ rất quan trọng trong Phật giáo, thường đi kèm theo nghĩa nhân duyên. Trong nhân – duyên – quả thì nhân là nguyên nhận chính, duyên là tác nhân phụ, quả là kết quả của nhân và duyên khi đã hội đủ điều kiện hay đã chính muồi. Duyên của nhân – duyên – quả này lại chính là nhân hoặc quả trong chuỗi nhân – duyên – quả khác. Thay đổi cũng diễn ra tương tự đối với nhân, quả. Chúng nương tựa, tương tác, hỗ trợ nhau tạo ra muôn hình vạn trạng trong cõi nhân sinh.

“Nghịch duyên là ma khảo của mình/ Trắc trở mọi đường cõi xuống lên/ Nhưng sẽ trui rèn lòng kiên nhẫn,/ Tạo chí vững bền chắc như đinh” (Nghịch duyên). “Vô duyên ai gặp cũng không duyên/ Chẳng ai để mắt, một trời riêng/ Không ai quấy nhiễu khi tu học/ Bạn với tự nhiên chẳng thấy phiền” (Vô duyên).
Nhưng bằng cái tâm Bồ đề của mình, tác giả cảm nhận được hương sen trong hồ, tinh khiết nơi bùn đất khởi sanh; nhưng hơn hết, chính là nét hương thanh tịnh đọng lại từ tính chất cao quí, thanh sắc vẹn toàn, trở thành bệ đỡ Phật ngồi: "Sen đời, sen Phật, với sen người/ Sen ở với lòng thơm muôn nơi/ Sen ở dưới hồ là hương sắc/ Sen ở trên bàn tỉnh giác thôi" (Sen).

Tình tấn, mãnh liệt không ngừng nghỉ để đạt chánh quả. Tâm luôn chuyên nhất vào định cảnh, không bao giờ tán loạn. Dùng trí tuệ sáng suốt để quán sát pháp tự của mình. Bốn như ý này tựa như những nấc thang kế tiếp nhau để đưa người tu từ cái tâm hữu lậu mê mờ đến với cái tâm vô lậu giải thoát. Do đó, phá tan được màn vô minh trói buộc. Vô minh không còn tất sẽ nảy nở những trí tuệ và công đức đầy đủ để nâng đỡ, cứu vớt chúng sinh.
Bốn chánh cần, bốn trạng thái tinh tiến, bao gồm những ý thức, hành động đối với cái thiện và ác. Với cái thiện thì khuyến khích, tác động đến cho nó hiện hữu và phát triển. Với cái ác thì ngăn chận, tác động đến cho nó triệt tiêu, không xuất hiện.

Không trong Phật giáo khác với cái không của thế gian. Theo lời Phật dạy, cái gì duyên khởi biểu hiện qua sự liên hệ giữa không gian và thời gian. Trong không gian các sự vật là không thực thể và vô ngã. Theo thời gian, các sự vật, sự kiện đều vô thường. Ta bà hát, phải chăng là những tiếng hát vang lên giữa cõi nhân gian đầy đau khổ này. Tiếng hát này lại hàm chứa những nội dung, những hướng đích khác biệt của người trưởng tử con Phật.
Tác giả mượn thơ nói hộ lòng mình: nguyện cho chúng sinh đều được hạnh phúc và nhân duyên tạo nên hạnh phúc, thoát khỏi khổ đau và nhân duyên tạo nên khổ đau.

Đọc qua tập thơ gồm 70 bài, phần lớn mỗi bài thể hiện nhân sinh quan, hơn nữa là vũ trụ quan của tác giả. Trong từng bài thơ, đã cho thấy cái nhìn, nghe, nghĩ... về cuộc đời. Ở đó, những cảnh đời xuất hiện như quan niệm của thế gian. Đặc biệt, kèm theo là những nhận định, đánh giá với tư cách của một người nhiều năm gắn bó với cửa thiền.

Về hình thức, phần lớn các bài thơ làm theo thể bảy hoặc tám chữ, với vần liên tiếp hay bắc cầu, có bài chỉ vần trong từng khổ. Do đó, thuận lợi cho việc giãi bày, khẳng định quan điểm. Một vài bài theo thể lục bát, cổ phong năm hoặc sáu chữ chỉ mang tính điểm xuyết. Nhưng nội dung mới chính là trong bài viết này.

Trên đường đời, tác giả đã tự tri, tự chứng, tự mình giác liễu. Không dấy khởi vọng niệm của bản tánh (như hồ nước phẳng lặng, không gợn sóng), bừng chiếu trí tuệ, quán sát tất cả mọi sự (như sự phản chiếu của mặt nước). Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. Một trái tim bao la, thiện lành và trong sáng vì tất cả mọi người.

Bằng lòng từ vô lượng của mình, tác giả hoan hỉ chia sẻ nỗi đau khổ và niềm vui của mọi người. Ta bà hát, từ đó, như những ánh ngọc lung linh, những cành mai nở biếc, những nụ đào e ấp trầm lắng trong ánh nắng khoan thai như khẳng định sự hiện hữu do duyên lành giữa cuộc đời khắc khoải. Cạnh đó, là hương tâm thanh tịnh toả lan nhè nhẹ.

Mỗi buổi sáng ngồi uống trà, được trao đổi nhiều điều với tác giả, nghĩ đến những ngày Người đi an dưỡng theo chỉ định của thầy thuốc, tôi lại liên hệ với bản thân mình và người thân, bạn bè trong cõi đời vô thường.
Thông qua đọc tác phẩm này, tôi như có cơ hội lần nữa tiếp cận, học tập lại những kinh sách đã đọc.
Có lẽ, qua những ngôn ngữ trong tập thơ này, tác giả muốn gởi tấm lòng của người đang bước đi tiệm cận với con đường trí tuệ vô sư, thoát ly sinh tử, luân hồi.
“Không mong chờ hoa nở, Chẳng lo hoa chóng tàn, Lòng ta như sương khói, Lặng lẽ đầy và tan” (An Nhiên, DXĐ)

Tôi, cuối cùng đã đọc Ta Bà Hát của thầy Đồng Bổn với tâm thế đó.

Sài Gòn, tháng 10 âm lịch, năm Nhâm Dần.

Lương Xuân Định


pdf icon-2






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/06/2010(Xem: 25379)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 8043)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
16/05/2010(Xem: 6664)
Thầy từ phương xa đến đây, Chúng con hạnh ngộ xum vầy. Đêm nay chén trà thơm ngát, Nhấp cho tình Đạo dâng đầy. Mừng Thầy từ Úc tới thăm, Đêm nay trăng sáng ngày rằm. Thầy về từ tâm lan tỏa, Giữa mùa nắng đẹp tháng Năm
10/03/2010(Xem: 10207)
Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Hòa Thượng thì phần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịch thuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, còn ít hơnnữa đối với cả một đời Ngài đã bỏ ra phục vụ đạopháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhaunhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài.
10/03/2010(Xem: 7733)
Ba La Mật, tiếng Phạn Là Pu-ra-mi-ta, Gồm có sáu pháp chính Của những người xuất gia. Ba La Mật có nghĩa Là vượt qua sông Mê. Một quá trình tu dưỡng Giúp phát tâm Bồ Đề. Đây là Bồ Tát đạo, Trước, giải thoát cho mình,
10/03/2010(Xem: 12228)
Tên Phật, theo tiếng Phạn, Là A-mi-tab-ha, Tức Vô Lượng Ánh Sáng, Tức Phật A Di Đà. Đức A Di Đà Phật Là vị Phật đầu tiên Trong vô số Đức Phật Được tôn làm người hiền. Ngài được thờ nhiều nhất Trong Ma-hay-a-na, Tức Đại Thừa, nhánh Phật Thịnh hành ở nước ta.
01/10/2007(Xem: 7522)
214 Bộ Chữ Hán (soạn theo âm vận dễ thuộc lòng)
20/10/2003(Xem: 31238)
Tình cờ tôi được cầm quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của Mặc Giang do một người bạn trao tay, tôi cảm thấy hạnh phúc - hạnh phúc của sự đồng cảm tự tình dân tộc, vì ở thời buổi này vẫn còn có những người thiết tha với sự hưng vong của đất nước. Chính vì vậy tôi không ngại ngùng gì khi giới thiệu nhà thơ Mặc Giang với tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca. Mặc Giang là một nhà thơ tư duy sâu sắc, một nhà thơ của thời đại với những thao thức về thân phận con người, những trăn trở về vận mệnh dân tộc, . . . Tất cả đã được Mặc Giang thể hiện trong Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trong sáng và xúc tích, tràn đầy lòng tự hào dân tộc khi được mang cái gène “Con Rồng Cháu Tiên” luân lưu trong huyết quản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567