Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhớ rừng (Lời con hổ ở vườn Bách thú)

01/04/202221:27(Xem: 8136)
Nhớ rừng (Lời con hổ ở vườn Bách thú)

xuan nham danNhớ rừng

(Lời con hổ ở vườn Bách thú)

 

Thế Lữ
Tặng Nguyễn Tường Tam


Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

         *

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị.
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!


Thế Lữ

 

Bài thơ này được cho là lấy cảm hứng từ bài Der Panther (Con báo) của Rainer Maria Rilke (Áo, 1875-1926) và bài Tyger (Con hổ) của William Blake (Anh, 1757-1827).


Trên đây là bài thơ theo bản in lần thứ 2 năm 1941 sau khi đã được tác giả sửa chữa (bản đầu in năm 1935)

 

Bài họa của Tùy Anh

 

Về rừng

(Lởi của Người Lưu Lạc)

 

Tùy Anh

Họa bài Thơ Nhớ Rừng của Thế Lữ

 

Ôm mối hận nhưng lòng còn son sắt

Thương quê hương đòi đoạn tháng ngày qua

Thương đời mình lỡ một thuở ngu ngơ

Nên lao nhọc trong rừng sâu núi thẳm

Cam đày đọa trong lao tù giam hãm

Đề cho người quyến thế vẫn ăn chơi

Khi âm thầm di tản biệt tăm hơi

Nên nước mất, nhà tan, đời vong lữ.

 

Ta đeo đẳng cả trăm thương ngàn nhớ

Thuở lưu đày vương vấn chuyện ngày xưa

Tuổi trẻ mộng mơ, biển cà, rừng già

Khi tha thiết suối nguồn, khi đậm tình sông nuúi

Khi cuồng nhiệt cất tiếng ca vang dội

Ta ước mai sau đất nước huy hoàng

Đời an vui theo khúc hát nhịp nhàng

Ân ái thêm nồng, tình đầy hương sắc

Khi hương lửa đã lên màu sáng quắc

Thì bên nhau hơi ấm lại tìm hơi

Ta biết ta không là kẻ lạc loài

Giữa chốn hồng trần không lưu tên tuổi!

 

Đâu những lúc dừng quân bên bờ suối

Ta mơ ngày chinh chiến cũng dần tan?

Đâu những mùa vàng rực lúa ngút ngàn

Ta chung sức để dựng xây đời mới

Đâu những ngày mưa tuôn nắng gội

Ta ở biên cương, người chốn tưng bừng?

Đâu những lần chạm súng ở ven rừng

Nhìn cái chết giữa bạn-thù gay gắt

Chủ nghĩa điên cuồng, bầm gan tím mật?

- Than ôi! Đời tang tóc cũng vì đâu?

 

Nay ta đàng thao thức suốt canh thân

Nơi xứ lạ lòng vẫn mong biến đổi

Mà ở quê hương vẫn lọc lừa gian dối:

Chủ trương đổi mới, cách mạng vun trồng?

Mà phồn vinh thống khổ là nước hai dòng

Của tư bản đỏ và dân đen hèn kém

Kẻ tinh mắt sẽ nhận ra hung hiểm

Vì mưu thần chước quỷ chốn hoang vu

Của hạng người từ rừng núi thâm u!

 

Hỡi hồn thiêng của núi sông hùng vĩ

Nơi tổ tiên đã khai nền thịnh trị

Nơi an bình ta đã sống ngày xưa

Nơi ta sẽ về, ước hên từng giờ

Để tranh đấu chẳng bao giờ chán ngán

Dù công sức chẳng có gì to lớn

Nhắc đến tên lòng cũng chẳng hổ ngươi

- Hỡi cố hương yêu dấu của ta ơi!

 

Tùy Anh (Phù Vân)

(Đầu Xuân Mậu Dần, 1998)

Trong Thi Tập Khúc Hát Tiêu Dao, Viên Giác, 2000.

 

***

facebook

youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/10/2015(Xem: 12248)
Thầy đi một sáng mùa thu Trong cơn lốc thổi Vô thường tử sinh
11/10/2015(Xem: 8740)
Có người khách hỏi lão hòa thượng: Pháp sư, con muốn hỏi ngài một vấn đề hơi bất kính một chút có được không ạ? Lão hòa thượng: Xin ông cứ nói! Người khách: Lúc ở nơi dân chúng đông đúc thì ngài ăn chay, vậy khi ở một mình trong phòng ngài có ăn thịt không? Lão hòa thượng hỏi người khách: Ông tự lái xe tới đây phải không? Người khách trả lời: Vâng, đúng ạ! Lão hòa thượng: Khi lái xe cần thắt dây an toàn, xin hỏi ông là ông thắt vì sự an toàn của bản thân hay vì cảnh sát? Nếu như vì bản thân mình thì có hay không có cảnh sát ông sẽ vẫn đều thắt thôi. Người khách: A, Con hiểu rồi!
08/10/2015(Xem: 18971)
Khi chim còn sống trên đời Chim ăn kiến nhỏ thấy thời khó chi, Nhưng khi chim bị chết đi Kiến thời ăn nó có gì khó đâu.
06/10/2015(Xem: 15917)
(1) Con nguyện luôn yêu thương tất cả chúng sanh Bằng cách xem họ quý báu Hơn ngọc như ý Để thành tựu mục tiêu tối thượng.
06/10/2015(Xem: 16608)
Con xin đảnh lễ tâm đại bi. Con xin đảnh lễ chư đạo sư cao cả. Con xin đảnh lễ chư Bổn Tôn, Là chư vị ban nguồn cảm hứng về lòng tín tâm và sùng mộ.
05/10/2015(Xem: 10132)
Lại thêm thu nửa trở về, Nghĩ thân đất khách mà tê tái buồn. Nhớ về quê mẹ cội nguồn, Khi nhìn đôi cánh lá vàng nhẹ bay, Nhón chân dạo bước vườn ngoài, Nghiêng mình nhặt lá rụng rơi bên thềm. Sắp từng chiếc lá gọi tên, Thì thầm tên lá theo miền thế gian. Cảnh thu dễ gợi u buồn, Hỏi sao tâm để rộn ràng triền miên. Nhắn lòng ta ráng tịnh yên, Đem sao cho được chữ Thiền vào Thu !
03/10/2015(Xem: 20088)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
02/10/2015(Xem: 12754)
Bài thơ vô cùng súc động Do not stand at my grave and weep (Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ) của Mary Elizabeth Frye (1905-2004) đã được dịch ra không biết bao nhiều thứ tiếng và đã được đọc lên, phổ nhạc, trình bầy không biết bao nhiêu lần bởi các ca sỹ trứ danh. Mary Elizabeth Frye là một bà nội trợ người Mỹ, làm nghề bán hoa. Bà được cả thế giới biết tên vì một lý do độc nhất : bà là tác giả bài thơ « Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ », được viết vào năm 1932. Mary Elizabeth sinh ra ở Dayton, Ohio. Mới ba tuổi đã mồ côi. Sau đến ở Baltimore, Maryland. Năm 27 tuổi lập gia đình với Claud Frye, ông làm nghề buôn bán quần áo. Bài thơ làm bà sau này trở nên nổi tiếng được viết trên một chiếc túi mua sắm, lấy cảm hứng từ chuyện một cô gái trẻ tuổi, Margaret Schwarzkopf, ở với gia đình Frye, đã không thể đến thăm mẹ đang hấp hối ở Đức, vì cô gái là dân Do Thái. Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 12 dòng, không có chủ đề. Frye thấy bạn bè thích nên đã sao nhiều bản và lưu hành, nhưng chưa bao giờ
29/09/2015(Xem: 9433)
Dáng ngồi như núi như non Trăm năm sương gió vẫn còn uy nghiêm Trên cao sừng sững bóng hiền Mưa sa nắng chiếu địa thiên lưu tình Giữa đời lặng lặng thinh thinh Tỏa hương đạo hạnh hậu sinh hồi đầu Tử tôn gánh đội ân sâu Chuông ngân trưa tối, kinh cầu sớm khuya Bước chân hoằng độ đi, về Vườn ươm tỏa bóng bồ đề mát tươi Như non như núi không dời Đạo thành như ý, dáng ngồi thiên thu.
27/09/2015(Xem: 10715)
Nhìn lá rơi VÔ THƯỜNG luôn biến hoại Thân xác nầy cũng duyên hợp tử sanh Vũ trụ kia do tứ đại hợp thành Đâu còn mãi mà thâu gom chấp thủ !
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]