Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kiều Kinh

20/03/202219:27(Xem: 6092)
Kiều Kinh

 

 kim van kieu

 

 


KIỀU KINH

(Tu là cội Phúc...)

... Cho hay giọt nước cành dương
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên...
(Đoạn Trường Tân Thanh – Nguyễn Du)

Ninh Giang Thu Cúc







LỜI THƯA CÙNG QUÝ ĐỘC GIẢ


Những tưởng Ninh Giang Thu Cúc sẽ gác bút sau tập nhận định “Đọc Kiều Thương Khách Viễn Phương” nhưng nào có được - bởi nghiệp dĩ đeo mang nên mới có Kiều Kinh gởi đến quý vị.
Với tuổi tác và bệnh trạng – tác giả muốn nghỉ viết để duy dưỡng tinh thần, trì chú niệm kinh và chung sống an yên cùng căn bệnh nghiệt ngã là xẹp cột sống lưng...
Thế nhưng; với tiêu chí – còn thở là còn làm việc, tác giả không cam chịu là người vô tích sự vì thế NGTC vẫn viết (dù trong tư thế khó khăn) mong đóng góp chút công sức nhỏ nhoi cho nền Văn học nước nhà.

Với “Đọc Kiều Thương Khách Viễn Phương” tôi đã đồng cảm sẻ chia nỗi khổ niềm đau với người đàn bà bạc mệnh Thúy Kiều... Nhưng tôi nghĩ vẫn chưa đủ; bởi sau cuộc đoàn viên với gia đình và Kim Trọng, Thúy Vân đã “bàn giao” Kim Trọng cho chị để gọi là châu về hợp phố, có thể Thúy Vân chỉ vì cảm thương tình cảnh của chị mình chứ với “bản năng sở hữu”, chắc gì Vân đã thật lòng nói lời “trao trả”... Phần Thúy Kiều bằng sự trải nghiệm phong trần mười lăm năm với bao sự, bao tình, đã cho nàng một vốn sống đủ để chối từ lời đề nghị nối lại tình xưa với chàng Kim bằng chính lòng tự trọng; và cả sự xấu hổ về quá khứ nhục nhằn của bản thân chứ trong sâu thẳm tâm tư Thúy Kiều - mối tình đầu với Kim Trọng dễ gì phai nhạt?!
Bây giờ gặp lại cố nhân với “phấn thừa hương cũ bội phần xót xa” chỉ gây sự khó xử cho cả ba người, hai người đàn bà đáng thương nầy đều mang nỗi mặc cảm khác nhau, họ phải nhìn nhau để ứng xử từng ngày trong mối tương quan; làm sao tránh khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến bao điều vi tế trong đời sống vợ chồng, giữa Thúy Vân Kim Trọng, Thúy Kiều Kim Trọng. Trong vụ việc nầy chỉ có Kim Trọng là người thụ hưởng tất cả mọi sự lợi lộc, cụ Nguyễn thiên vị đàn ông nhiều quá?! Chúng tôi có suy nghĩ; để bảo vệ tình cảm máu thịt của hai chị em Thúy Vân – là Thúy Kiều nên xuất gia cửa Phật để tu trì, sám hối những oan nghiệt trong quá khứ, hiện tại, vị lai, đó là cách tốt nhất cho thân, tâm Thúy Kiều, trả lại sự bình yên cho Thúy Vân trong cuộc đời làm vợ Kim Trọng để hai người đàn bà cùng thoát cảnh:
“... Cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng...”
(Hồ Xuân Hương)
Cụ Nguyễn Tiên Điền đã chẳng từng khẳng định “Tu là cội phúc tình là dây oan” và đã dọn dẹp cho Thúy Kiều đời sống “Mùi thiền đã bén muối dưa. Màu thiền tính vốn quen ưa nâu sòng” đó sao?!
Vậy Kiều Kinh của kẻ hậu sinh, hậu học nầy đã đáp ứng đúng nguyện vọng của tiền nhân; hẳn cụ bằng lòng cho con làm việc ấy. Xin kính vọng đến anh linh Nguyễn Tiên Điền muôn vàn sự yêu kính con dành cho cụ.
Với một trăm tám mươi hai (182) câu lục bát – xin nguyện cầu Thúy Kiều được đến bến bờ giải thoát.
“... Lạ thay vừa bén mùi thiền
Mà trăm nảo với ngàn phiền sạch không”
(Chu Mạnh Trinh)
Và trong nỗi khổ chung của chúng sanh, nguyện hồi hướng công đức cho toàn thể nhân sinh trên hành tinh nầy không còn hận thù chia rẽ màu da sắc tộc, dị biệt tôn giáo khi tất cả mọi người đều có chung “Máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn”. Mong thay!

Trân trọng
Ninh Giang Thu Cúc

Ninh-Giang-Thu-Cuc-vh-saigon
Nhà nghiên cứu Ninh Giang Thu Cúc




KIỀU KINH

Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá
Lệ lòng mong cạn chốn am không
Cửa thiền một đóng duyên trần dứt
Quên hết người quen chốn bụi hồng
(Bến giác – J.Leiba)

I - Am tranh lều cỏ sớm trưa
Nâu sòng đạm bạc muối dưa tịnh lòng
Qua rồi năm tháng long đong
Oan khiên rửa sạch thong dong cõi miền
Gieo duyên – khoác áo “Trạc Tuyền”
Mầm lành hé nhú – giữa miền trần lao
Nghiệp căn còn mãi lao xao
Phải tay Bạc Hạnh lại vào lầu xanh.

II - Ngược dòng về tuổi thanh tân
Nữ lưu phong vận hồng quần băng trinh
Sắc tài năm ngón tay xinh
So dây nắn phím tơ tình đa đoan
Cung cầm nửa khúc tân toan
Bằng như mệnh nghiệp mang mang đợi chờ
Thật ư – mà tưởng như mơ
Tiết Thanh Minh ấy cập bờ tơ duyên
Tim son loạn nhịp đầu tiên
Môi hồng nở nụ thơm hiền đoan trinh
Thoắt nhiên tình lại gặp tình
Như là đã hẹn ba sinh thuở nào
Lên yên Kim vẫy tay chào
Khuê phòng trở gót Kiều nao nao buồn
Giã từ chưa tỏ ngọn nguồn
Mà sao lòng cứ vấn vương chút gì
“... Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không...”
Ngẩn ngơ lòng lại hỏi lòng
Ai kia nào có trông mong như mình
Bâng khuâng quay ngựa thư phòng
Chàng Kim xao xuyến ước mong tương phùng
Dáng ai tha thướt hình dung
Gót sen uyển chuyển làm rung tơ lòng
Dung nhan kiều mị sáng trong
Thu ba sóng gợn trăm vòng hồ thu
Phòng văn ca khúc tương tư
Sáng chiều thơ thẩn áng thư đứng ngồi
Nhìn đâu cũng thấy bóng người
Giọng oanh thỏ thẻ nói cười đoan trang
Nghĩ suy tìm cách lần sang
Mái đông hiên Thúy ngàn vàng đặt thuê
Cầu mong gần được tường khuê
Mặt nhìn tỏ mặt lòng mê mẩn lòng

Hoàng hôn gặp buổi thong dong
Thúy Kiều dạo gót tường đông ngắm trời
Thoa vàng vướng cánh đào tươi
Vô tư nàng vẫn rong chơi chẳng nhìn
Bên hiên Lãm thúy chàng Kim
Đêm ngày ước nguyện được nhìn dáng ai
Sáng mai dạo bước tường ngoài
Nhìn sang vườn Thúy ai hoài nhớ thương
Hoa đào thoang thoảng đưa hương
Trên cành bỗng thấy vướng vương vật gì?
Vội vàng Kim nhón chân đi
Tìm thang bắt vội ngại chi hiểm nghèo
Trân châu báu vật đây rồi
Của đây người đấy bồi hồi thiết tha
Tường xuân kín cổng cao tòa
Tin xuân đâu dễ lọt qua trướng hồng
Âm thầm sáng ngóng chiều trông
Thoa vàng càng ngắm càng mong gặp người
Lòng đang tưởng một nhớ mười
Vườn bên nghe vọng tiếng cười xôn xao
Kim mừng khấp khởi nôn nao
Vội vàng sửa áo ra chào giai nhân
Hai bên giáp mặt tần ngần
Mừng nầy đã thỏa bao lần ngóng trông
Chàng Kim cất tiếng thưa, vâng
Kim thoa nhặt được rày mong mai chờ
Thật đây mà tưởng như mơ
Châu về hợp phố xin nhờ trao tay
Thúy Kiều muôn đội ơn may
Kim càng luống cuống càng say men tình
Tay ngà năm ngón nuột xinh
Nâng niu trâm ngọc ân tình cưu mang
Kim Kiều hạnh ngộ hân hoan
Đổi trao kỷ vật xuyến vàng khăn thêu
Vượt rào thề ước trăm điều
Thơ đề, tranh họa, vách treo nguyệt cầm
Tay tiên dạo phím tơ đồng
Khúc khoan khúc nhặt sầu đong lệ nhòa
Cung cầm năm bậc mưa sa
Buồn lên chất ngất cỏ hoa úa màu
Năm canh tròn giấc mộng đầu
Duyên trong nghĩa trọng ngọc châu sáng ngời
Chia tay bịn rịn khóc cười
Bình minh ló dạng – tiếng người gọi sang
- Cậu về lo việc hộ tang
Ông bà đã sẵn – đường sang quê người
Liêu Dương – thúc phụ qua đời...
Hiếu, tình, cách trở rã rời lòng Kim...

Nổi nênh chút phận thuyền quyên
Tai ương dồn dập ngày đêm đọa đày
Nỗi nhà ách nạn oan đầy
Nỗi mình tình nặng sâu dày biển non
Trăm năm thề nguyện vuông tròn
Nào hay oan khốc tình son lỡ làng
Đành thôi ngọc nát vàng tan
Bút đau vĩnh biệt Kim lang mấy hàng
Quay lưng hứng chịu bẽ bàng
Gia hương đạo trọng ngàn vàng dễ mua
Thương cha tuổi tác già nua
Đem thân báo đáp ân thừa – cao sơn
Đắng cay bao nệ thiệt hơn
Thung huyên gia đạo an yên là mừng
Chén buồn đưa tiễn ngập ngừng
Đất trời chớp giật đùng đùng bủa vây
Thương sao thân phận bèo mây
Dữ nhiều lành ít vần xoay nghiệp trần
Sa vào lưới nhện căn phần
Đoạn trường lăn lóc mấy lần hồng nhan
Đọa đày nát ngọc tan vàng
Bèo mây trôi dạt lầm than đất người
Bao phen mưa dập sóng dồi
Tấm thân luân lạc nổi trôi sớm chiều
Cực lòng tạm khoác phong phiêu
Mưa chan gió táp lạnh xiêu vóc gầy...

III- Quay đầu nương tựa am mây
Rũ thân bụi bặm bủa vây hồng trần
Quy y Tam bảo hồng ân
Tam quy ngũ giới thành tâm thọ trì
Từ đây dứt bỏ tham si
Nâu sòng đạm bạc đứng đi nhẹ nhàng
Mõ chuông kinh kệ lời vàng
Pháp âm rót mật hàng hàng âm ba
Muối dưa chay tịnh ngày qua
Tâm kinh bát nhã an hòa thân tâm
Thất tình lục dục giảm dần
Bờ mê trở gót đến gần đài sen
Tuệ quang bừng sáng ánh đèn
Soi pho kinh điển bao phen đêm dài
Kiếm Văn Thù chặt mê sai
Kim Cang diệu hữu cho ai kiên trì
Thủy Sám lạy đấng từ bi
Lương Hoàn sám hối những gì nghiệt oan
Trải nhiều kiếp nạn tân toan
Thành tâm hóa giải muôn ngàn nghiệp xưa
Từ đây tạnh gió tan mưa
Nhân lành gieo giống chẳng chừa nhỏ to
Yêu người yêu vật chăm lo
Con sâu cái kiến chẳng cho diệt trừ
Nhiếp tâm mở rộng lòng từ
Bốn phương ba cõi xem như một nhà
Thương người xuôi ngược bôn ba
Tuổi cao sức yếu không nhà cô đơn
Ấp yêu xoa dịu tủi hờn
Miếng cơm manh áo qua cơn ngặt nghèo
Thương người vất vả gieo neo
Sẻ chia khó nhọc trèo đèo vượt sông
Giúp người bất kể sơ thân
Nguyện xin trang trải nợ nần kiếp xưa
Thương yêu nói mấy cho vừa
Trải lòng nhân ái sớm trưa tô bồi
Ngược xuôi bao độ luân hồi
Bao phen chìm nổi bao lời thị phi
Giờ xin giọt nước dương chi
Rửa tâm sạch mát sân si xa lìa
Quá khứ khép cửa sau kia
Mắt nhìn hiện tại đong chia mấy phần
Tương lai đừng vọng xa gần
Sinh linh bao kiếp xoay vần được thua
Nhân gieo quả gặt được mùa
Hồi chuông triêu mộ đuổi xua nghiệp tà
Ung dung bước giữa ta bà
Băng tâm nhất phiến ngọc ngà – Tôi ơi!
Tâm từ vô lượng dâng đời
Tâm bi vô lượng gởi người trần gian
Tâm hỉ vô lượng lạc, an
Tâm xã vô lượng buông ngàn chấp mê
Bốn tâm nương tựa Bồ Đề
Cội nguồn tu tập nương về pháp thân
Tín tâm một dạ chuyên cần
Niết bàn hiện tại cận gần nhân sinh
Mấy lời lập nguyện đinh ninh
Kiều xin huân tập cứu mình: An Vui!
Dám đâu nghĩ chuyện độ đời
Dám đâu nghĩ chuyện xa vời cứu sinh
Mấy câu tâm huyết răn mình
Nhất tâm đảnh lễ chúng sinh muôn loài.

IV - Nguyện cầu nhân loại thái bình
Nhà nhà no ấm đậm tình nước non
Muôn dân một tấc lòng son
Dâng lên Quốc tổ vẹn tròn thảo ngay.

Ninh Giang Thu Cúc



***

facebook

youtube


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/09/2010(Xem: 59826)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 8938)
Mười con nhạn trắng về tha Như Lai thường trụ trên tà áo xuân Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm
08/09/2010(Xem: 9153)
Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
06/09/2010(Xem: 11486)
Văn Tế Thiên Thái Trí Giả Tác giả Đại Sư Tuân Thức Việt dịch: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm *** 1. Nhất tâm đảnh lễ Thiên Thai Trí Giả trong núi Đại Tô tu Tam Muội Pháp Hoa Tâm tâm tịnh thường lại qua pháp giới Như mặt nhật trên không chẳng trụ không Ba ngàn thật tướng tức khắc viên thông Tám vạn trần lao đều đồng chân tịnh. Xưa hội kiến Linh Sơn còn hoài niệm Nay toàn thân bảo tháp thấy rõ ràng Nếu chẳng cùng sư Nam Nhạc tương phùng Ai biết được tướng thâm sâu thiền định?
06/09/2010(Xem: 11206)
Trước khi viết loạt bài thơ trong phần 1 (Hương Đạo Pháp) của thi tập này, tôi đã có gần 900 bài thơ, xoay quanh các đề tài như quê hương đất nước, lịch sử, địa lý, giáo dục, cuộc sống hiện thực, triết lý sắc không, nhân sinh quan - vũ trụ quan Phật giáo, xưng tán Phật và Bồ-tát….. Tôi đang tạm thời dừng lại công việc sáng tác và chuẩn bị làm một số công việc chuyên và không chuyên khác. Nhưng chợt nhớ lại nhiều năm trước đây, thỉnh thoảng có trao đổi với vài vị thân, quen, những người đã đọc gần hết thơ tôi. Họ nói, trong số gần 900 bài thơ đã đọc qua, tuy cũng có nhiều bài khuyến tu, nhiều bài mang tính giáo lý sâu sắc, có khả năng tịnh hóa lòng người, tuy nhiên những bài đó nằm tản mạn chưa tập trung. Hơn nữa cũng cần một loạt bài có nội dung giáo lý căn bản với thuật ngữ, danh từ, pháp số thông dụng, nếu có thể cho thành một tập riêng biệt thì càng tốt.
06/09/2010(Xem: 9496)
Phù Sinh Nhiễm Thể Ca, TNT Mặc Giang
06/09/2010(Xem: 10046)
Mùa hạ mà hơi lạnh xông ướp cả gian phòng. Tắt điện, thắp lên ngọn bạch lạp cắm vào một quả thông, nhựa sống vẫn còn mơn man đâu đây, nồng nàn. Mấy mươi năm hiên ngang sừng sững, một cơn bão thổi qua, thông bật gốc ngã quỵ, vương vãi xác xơ. Có gì tồn tại mãi đâu! Rồi tất cả, cũng bị thiêu rụi như ngọn bạch lạp đang cháy dỡ…
06/09/2010(Xem: 11693)
Được sinh ra, lớn lên, đi vào trường học, đi vào trường đời, rồi dong ruổi muôn phương, và dù có ra sao, Quê Hương vẫn Còn Đó ! Từ thuở phôi sinh xuất hiện Lạc Hồng, Hùng Vương - Văn Lang, xuyên qua chiều dài lịch sử, cấu thành mảnh dư đồ Chữ S, với Bắc Nam Trung gấm vóc, với núi non hùng vĩ, biển rộng sông dài, với những tên gọi thân yêu Huế - Sài Gòn - Hà Nội, với từng thời kỳ dù có qua đi, không gian dù có biến đổi, và dù cho vật đổi sao dời, Quê Hương vẫn Còn Đó !
06/09/2010(Xem: 9710)
Người phương tây thường nói “trẻ ước mơ, già hoài niệm”, nhưng sau khi đọc xong tập thơ Hành Trình Quê Mẹ, tôi thấy tác giả, một nhà thơ ở tuổi tri thiên mạng, nhưng lại luôn ghi lòng tạc dạ, nâng niu trân trọng các giá trị được tài bồi bởi tiền nhân; tác giả còn hoài bảo, mơ vọng một hướng sống thiết thực cho người Việt Nam nói chung. Với Mặc Giang, hoài niệm và ước mơ nào có hạn cuộc bởi tuổi tác. Hoài niệm và ước mơ ấy đã trở thành chất liệu tài bồi cho dòng thơ với chủ đề Hành Trình Quê Mẹ tuôn chảy không mỏi mệt, để nguồn thơ của thi nhân vốn nhào nặn từ cuộc sống, trở lại phụng sự cuộc sống ấy, trở thành niềm tự hào kiêu hãnh của trào lưu thi ca hiện đại.
06/09/2010(Xem: 12120)
Qua năm mươi năm, tiếp bước tiền nhân tôi trót vào con đường khảo cứu lịch sử văn học dân tộc. Tôi đã đọc rất nhiều thơ và cũng làm được một số việc cho các thế hệ thơ ca. Nhưng khi may mắn được đọc tập thơ Quê Hương Nguồn Cội (và khoảng 650 bài khác nữa) của nhà thơ Mặc Giang, một tập thơ chan chứa tình quê hương dân tộc, với tâm hồn bao la, sâu rộng bằng trái tim và dòng máu của người Việt Nam, tập thơ đã làm cho tôi hòa đồng trong tác phẩm không còn phân biệt được tâm tư và cảm giác của mình và chỉ còn là một con tim, một dòng máu chung của dân tộc trộn lẫn vào sự cấu tạo chung trải qua mấy ngàn năm lịch sử của núi sông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]