Từ thuở nọ, Giác Tâm mới vừa mở mắt chào đời, đã nằm võng đong đưa giữa trùng điệp phù vân lãng đãng, ngút ngàn sương khói vờn quanh. Được hun đúc, tiếp cận với hồn thiêng sông núi uy linh, hùng vĩ nên tâm hồn thi sỹ, tự nhiên hàm dưỡng trong bầu khí chất rất mực thuần khiết, nguyên sơ.
Thơ phát ra từ đó, nhẹ nhàng như hơi thở, vừa lâng lâng bay bổng vừa bồng bềnh, thênh thang. Tiếng thơ ngân dài, đồng vọng lên từ phương lòng trong trẻo, đầy chim ca lảnh lót hòa lẫn suối khe róc rách, reo vang. Ngàn hoa nắng trổ, ngát hương trời vạn cổ, dưới những thung lũng mù xa, chập chùng bóng rừng sâu hun hút, hoang lạnh buốt mưa chiều.
Thơ bay phiêu phất hồn trăng vạn đại, vụt hiện lóe ngời thời nguyên thủy, sơ khai…Thần thái mang mang, thi sỹ đi về ngơ ngác, ngạc nhiên trước sự huyền bí của cuộc sống muôn loài, vạn vật trên mặt đất, trần gian, rồi hoát nhiên, bừng thấy ra đóa Hoa Tâm giữa trời thơ đất mộng bồi hồi:
Từng viên đá thấm mồ hôi
Đóa hoa tâm nở trên đồi mù sương
Đầu nguồn cuối bến sông Tương
Bàn tay của mẹ thơm hương xứ trầm
Vẫn còn đây đóa hoa tâm
Nghìn thu rụng tiếng nguyệt cầm đầu non
Đầu non cuối biển vọng tiếng nguyệt cầm, rung ngân bất tận một tiếng đàn trăng giữa thiên thu vời vợi. Khiến cho bất ngờ, mồ hôi thấm từng viên đá sỏi ven đồi, thấm qua bàn tay gầy guộc của mẹ hiền vun xới, chở che,đùm bọc, để rồi mọc lên tinh khôi một đóa hoa lòng trong trắng, một đóa hoa tâm thầm lặng, tỏa ngát hương trời giữa hoang vắng, tịch liêu, trên xứ miên cao nguyên, phiêu phưỡng khói sương mù. Đóa hoa từ tâm, đóa hoa tuệ tâm ấy, một ngày kia đã hóa thân thành Giác Tâm, một thi sỹ bình dị, đơn sơ nhưng rực ngời Nở Tỏa Trăng Sao trên cuộc lữ dặm dài:
Ai đem chút nắng lên đồi
Cho quỳ hoa nở tặng đời mai sau
Chỉ là chút sắc chút màu
Chân tâm ngưỡng vọng niềm đau phai nhòa
Đất trời dù biết không hoa
Con tim rung động nở tòa trăng sao
Vằng vặc trăng sao giữa đất trời Chân Như lồng lộng. Không biết tự bao giờ, dường như là năm 1956, chàng thi sỹ ra đời, đi về xuất hiện nơi sơn thôn Cỏ May, chốn Trại Mộ, Biển Hồ Trà, thuộc tỉnh Gia Lai này. Lớn lên trên thượng nguồn, núi đèo heo hút, rừng rú man dại, hoang vu, sớm chiều thấp thoáng mờ sương khói phủ. Ru hồn thơ vi vu, vi vút theo suối thác, truông ghềnh…Chạy nhảy, nô đùa với cỏ nội hoa ngàn, thở cùng gió núi, mưa rừng, nắng rậm giữa trời đất man thiên.
Đến năm 1969, mới 14 tuổi, chàng có duyên vào chùa xuất gia, học đạo và dần dần trải qua năm tháng tu hành, thấy hiện bừng ra cảnh giới tự tâm thanh tịnh từ thuở ban sơ. Sở dĩ, mình không sống được cái bản tâm vi diệu này là vì mình tự đánh mất nó đi, tự mình lơ đễnh, tự mình giam nhốt chính mình trong những cặn bã danh lợi, những ngục tù bản ngã ấu trĩ, những đố kỵ, nhỏ nhen, bần tiện, tự mình buông lung, buông thả, chìm đắm trong bóng tối vô minh, hụp lặn giữa đục ngầu tham sân si, trong mộng mị, chiêm bao, ảo dị sa đà…Cho nên, mạch nguồn thi ca trong lòng chợt bùng vỡ, dâng trào lời Nguyện Ước, rạt rào nguồn cảm hứng sâu xa:
Ta đánh mất bởi vì ta lơ đễnh
Mắt xa xôi say mộng ảo phương nào
Cỏ hoa ấy xiết bao lòng trìu mến
Lắng lòng nghe hoa cỏ sẽ thì thào
Ta đánh mất bởi trầm tư thái quá
Lối đi về quên bẵng ánh trăng sao
Ồ mộng mị triền miên vàng hoa lá
Sông thương đây tơ tưởng núi non nào?
Lời bộc bạch lòng ta em đã tỏ
Nối bàn tay hàn gắn những nhịp cầu
Dòng sông xưa đôi bờ hoa nở đỏ
Tặng cho nhau quên hết tháng năm sầu
Lời bộc bạch hay lời Nguyện Ước khơi vơi nọ, thi sỹ muốn nhắn gởi cho chư huynh đệ mười phương, đang sống lưu linh lạc địa, trên khắp quả địa cầu, đang quay lông lốc giữa hư không này. Hãy tự mình tỉnh thức. Hãy tự thắp đuốc lên mà đi hỡi khách lữ phong trần. Hãy quay về quê quán ban sơ, ngồi lại bên hồ xanh thanh thản, trút đi hết mọi sầu đau, áo não từ vô lượng kiếp. Khi đứa con hoang biết quy hồi cố xứ Pleiku Và Lữ Khách ngồi lại bên mẹ hiền, lắng nghe lời ru ca dao sưởi ấm tâm hồn:
Con lưu lạc từ ngàn xưa lưu lạc
Bỏ quê hương quên cả lối đi về
Đồi lộng gió tóc mẹ bay tóc bạc
Ngóng đợi con trăng khuyết đến trăng tròn
Con nhớ mẹ tà áo bay áo trắng
Đưa con qua suốt cuộc tử sinh này
Cưỡng lời mẹ con uống nhiều giọt đắng
Chợt tỉnh say mộng mị vơi đầy
Rồi một ngày khi đi qua chùa cổ
Bỗng reo vui khi thấy dáng người
Mẹ hiện hữu cho trần gian vơi khổ
Cõi người ta nay đã có tiếng cười
Chiều cao nguyên bay qua ngàn mây trắng
Chim thiên di về với cội nguồn
Hành lý đời từ nay không còn nặng
Gởi hồn mình theo từng tiếng chuông buông
Khi nghe từng tiếng chuông từ ngôi chùa trên núi cao vọng xuống, bỗng nhiên nhà thơ sực thấy ra bà mẹ trần gian, ruột thịt của mình cũng chính là bà mẹ hiền Quán Thế Âm đang nhìn mình bằng Mắt Thương Nhìn Đời đầy từ bi vô lượng:
Mẹ về trên đỉnh mù sương
Tinh khôi áo trắng mắt thương nhìn đời
Nước Biển Hồ có đầy vơi
Hải triều âm vẫn vọng lời đại bi
An nhiên trước cuộc thịnh suy
Vẫn vô úy sống giữa nguy hiểm này
Vô vi nguồn suối lành thay
Cành dương giọt nước thấm đầy lòng con
Nguyện tha thiết dạ sắt son
Dấn thân phiền não vẫn tròn yêu thương
Kính dâng một nén tâm hương
Quan Âm Bồ tát đưa đường thăng hoa…
“Mắt thương nhìn đời” hay“từ nhãn thị chúng sinh” là cái nhìn dịu dàng, trìu mến, chan chứa đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và hạnh nguyện thiết tha, vô cùng, vô tận, vô biên, vô lượng thương yêu thập loại chúng sinh của mẹ hiền Quán Thế Âm. Hạnh nguyện yêu thương vô điều kiện đó, nhà thơ Giác Tâm cũng thường xuyên nhắc nhở, khuyên bảo đàn em của mình tinh tấn thực hiện, hành trì, áp dụng vào thực tế cuộc đời Thương Mẹ Giùm Tôi:
Em còn hiện hữu trong tôi
Trong từng phiến đá bên đồi mù sương
Đi qua cuộc thế vô thường
Trong em còn có mắt thương nhìn đời
Giọt mồ hôi với nụ cười
Hoa trên đá nở bồi hồi ngày qua
Mai này tôi có đi xa
Trái tim xẻ nửa Hồ Trà em ơi!
Mong em hành đạo yêu đời
Đắp xây chùa cổ tuyệt vời nên thơ
Thay tôi em gắng phụng thờ
Nén hương tưởng Mẹ từng giờ nghe em
Lời dặn dò chân thành đó, khiến cho các em cảm động, nhớ ghi. Vì thế, bây giờ khi đã lớn khôn như bầy chim tung cánh bốn phương trời, các em vẫn thường nhớ về chùa cũ, thầy xưa:
Con nguyền làm hạt nước mưa
Tưới lên quê mẹ sớm trưa khô cằn
Cho con được là ánh trăng
Đêm rằm về lại tung tăng quây quần
Cho con sống không vong thân
Biết mình hiện hữu hồng trần làm chi
Đường con đi đường Từ Bi
Trọn đời vẫn nhớ khắc ghi trong lòng
Lấy Từ Bi làm con đường để bước đi là một thái độ vô cùng bao dung, dũng cảm. Chỉ có những trái tim hồng, được un đúc trong lò lửa nhiệt huyết giữa cuộc sinh tồn đầy bức bách, đầy thống khổ, điêu linh này, đã từng chứng kiến bao cảnh đời tuyệt lộ, tàn xiêu, thì mới đủ sức mạnh thần diệu mà phát tâm nguyện đại từ, đại bi như vậy được. “Đường con đi đường Từ Bi” tuy là một câu thơ dễ hiểu thôi, nhưng khó thực hiện, đủ gây chấn động khôn dò, bởi nói ra từ giới trẻ hôm nay. Thật vô cùng hy hữu, ít có làm sao!
Trào dâng lên làn thanh khí thi vị, thi nhiên, tiếng thơ Giác Tâm có cảnh có tình, có nhạc, có họa “thi trung hữu họa.” Trong thơ ngân lên những cung bậc thiền, những bức tranh bình dị, mộc mạc, phản ánh nhiều cảnh đời thường nhật, nhiều trạng thái tâm thức hân hoan, hoài niệm, tưởng nhớ…Lời thơ tha thiết, chân tình, biểu lộ thế giới nội tâm thâm cảm bao la như Ngắm Hoa Ven Đồi:
Hiên đời nắng táp mưa sa
Về non Ngọc Lĩnh ngắm hoa ven đồi
Am mây ngả bóng mây trôi
Dòng sông mộng vẫn muôn đời mênh mang
Ngỡ cùng tử mãi đi hoang
Hốt nhiên một đóa mai vàng nở tung
Thõng tay vào chốn bụi hồng
Đường xưa mây trắng phiêu bồng tiêu dao
Thõng tay vào chốn bụi hồng, thi sỹ mặc sức phiêu bồng, rong chơi tận góc bể chân trời khắp đồng bằng, châu thổ, cao nguyên. Ngao du từ phố núi Pleiku xuống phố biển Nha Trang, rồi lang thang qua các dòng sông Hương, sông Hồng, sông Cửu…Có lần lặn lội qua tận bến cát sông Hằng, Ấn Độ, theo đường xưa mây trắng, dừng gót lại bên Dòng Sông Ni Liên Thiền trong một chiều vạn đại quá hân hoan:
Ngàn năm vẫn con sông này
Ngàn năm vẫn cứ mây bay chập chùng
Thế Tôn vẫn là Cha chung
Dung nhan hiền thiện đại hùng đại bi
Như Lai không đến không đi
Tìm trong Phật tích thấy gì ngày qua?
Thấy gì, thi nhân không cần nói rõ mà lặng lẽ, nhẹ nhàng, bồng tênh trên ngõ về thông lộ Vô Ngôn. Tịnh khẩu như Bồ Đề Đat Ma leo lên tuyệt đỉnh núi Tung Sơn, chín năm ngồi trầm hùng, tịnh hạnh:
Học Đạt Ma nhìn vách
Nói nhiều có ra chi
Lặng im là thử thách
Vô ngôn cõi từ bi
Nói tuyên dương diệu pháp
Không bản ngã khoe bày
Không chánh niệm…bão táp
Loạn ngôn thành cuồng say
Bốn chín năm nói pháp
Thế Tôn nói chưa nhiều
Học hạnh Bụt…đền đáp
Đó mới là Tỳ kheo
Tỳ kheo là những bậc xuất sỹ, những tâm hồn dị thường, dám buông bỏ hết để lên đường làm một con người hoàn toàn vô sự. Trên con đường thênh thang đó, một chiều nọ, thi nhân lắng nghe Tâm Sự Hàn Sơn Tử:
Giã từ thôi chữ nghĩa
Về xem mây trắng bay
Cõi đời không dấu tích
Khắc chạm nào ai hay
Ba trăm bài vách núi
Có còn trong thiên thu?
Ta về nơi chốn ấy
Huyền nghĩa có phù du?
Thập Đắc ơi theo mình
Trụ vào nơi vô trụ
Thi phú để cho đời
Chừng bấy nhiêu tạm đủ
Sương mù len vách núi
Mờ yếu tính thiền thơ
Ta trôi dòng thi khắc
Rỡ ràng bài thơ Vô
Bài thơ Vô ấy, suốt kim cổ xưa nay, rất nhiều đạo sỹ, thiền sư đã sáng tạo và thi nhân cũng tiếp tục viết suốt bình sinh, lịch nghiệm của đời mình, trên dặm dài cô lữ theo nước chảy mây trôi. Rồi cuối cùng, làm cuộc quy hồi cố xứ, trở về ngọn đồi cao heo hút, trong ngôi chùa cổ rêu phong trầm tịch mịch.
Sau một thời gian dài hơn 15 năm tầm cầu học đạo với những bậc tôn túc, thầy Giác Tâm trở về an trú, trụ trì chùa Bửu Minh. Với tâm hồn thi sỹ tài hoa, thầy dốc hết năng lực, trí tuệ ra trùng tu toàn bộ cảnh thiền môn xuống cấp thành một ngôi đại tự nguy nga, tráng lệ. Chùa có vị trí biệt lập, cách xa làng xóm, nằm trên ngọn đồi giữa những nương rẫy chè xanh quang đãng, rộng dài. Trải qua bao mùa cuồng phong, bão tố, Ngôi Chùa Yêu Dấu ấy vẫn đứng trầm mặc, tịch nhiên, lặng lẽ:
Bửu Minh chốn cũ lại về
Ngàn sương gió lộng bốn bề trà xanh
Cây đa rợp bóng thiên thanh
Cho hồn tịnh lạc an lành đi lên
Con về lội khắp sơn xuyên
Trồng hoa trên đá an nhiên ngắm nhìn
Con về còn trọn niềm tin
Câu kinh Không Sắc xóa nghìn thương đau
Về đây sương trắng mái đầu
Chợt nghe chim hót nhiệm mầu tử sinh
“Con về còn trọn niềm tin” một câu thơ mà thi sỹ đã lấy làm đầu đề cho tác phẩm của mình (dài 364 trang, Phương Đông xuất bản, 2012) Con Về Còn Trọn Niềm Tin, tập tản văn, khẳng định tấm lòng son sắt với Đạo, với Thiền, với quê xứ Tự Tâm, Tự Tánh thanh tịnh. Thật tuyệt diệu “Câu kinh Không Sắc xóa nghìn thương đau” nói lên yếu chỉ, tinh túy của Bát Nhã Tâm Kinh mầu nhiệm, có khả năng đưa ta vượt thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Trên con đường phong quang sáng tạo, thi nhân cảm nhận ngay trong sinh tử vốn hiện hữu Niết bàn, mặc dù còn thấp thoáng nhưng cũng thấy ra một cõi đi về. Thành thử, Con Về Nương Tựa Cửa Thiền Từ Đây, cứ như vậy, như thế, tùy duyên bất biến trên nhịp bước thanh thản, lạc an:
Đi về một cõi thênh thang
Suối thương yêu chảy mênh mang đất trời
Còn đây áo trắng tinh khôi
Vờn bay thấp thoáng núi đồi mù sương
Con về đốt nén tâm hương
Lòng thành tưởng niệm vấn vương mẹ hiền
Cõi người ta cõi oan khiên
Con vể nương tựa cửa thiền từ nay
Một đời mê mải sống say
Quay về ngồi ngắm mây bay đỉnh tùng
Chim nào rớt xuống lòng thung
Xé toang lưới mộng trùng trùng bay lên
Bay lên đỉnh núi không tên
Cất cao tiếng hót mông mênh lưng trời
Nhà thơ mỉm nụ cười trầm tịch, lắng nghe “suối thương yêu chảy mênh mang đất trời” chảy tràn qua khắp rừng truông, núi đồi, rồi chảy về dưới mái chùa thanh vắng giữa bạt ngàn nương rẫy quanh đây. Thuận pháp, tùy duyên, thầy hướng dẫn, chuyển hóa, giúp đỡ đồng bào phật tử miền cao nguyên biết nhân quả, nghiệp báo, biết bố thí, làm việc phước thiện, biết buông bỏ tham lam, sân hận, si mê, để vơi đi bớt phần nào những phiền não, khổ đau, mệt mỏi, chán chường…
Phương trời viễn xứ, ngút ngàn giữa muôn trùng cuộc lữ, du sỹ này làm chuyến đi xuyên Việt, khởi từ bờ biển Kiên Giang, đến nay cũng hơn 6 tháng rồi mới tới vùng cao phố núi Pleiku, lãng đãng khói sương mù. Một nếp duyên lành hạnh ngộ, du sỹ dừng gót giang hồ, lưu trú lại chùa cổ gần nửa tháng nay. Sớm chiều vào ra nhàn nhã, ngắm xanh biếc Biển Hồ, trông mây ngàn bàng bạc trên dãy núi Tiên Sơn, chập chờn bao hoa nắng phiêu bay rờn lạnh bóng sơn khê…
Gặp du sỹ như gặp người đồng điệu, thầy trải lòng ra hòa khúc tâm giao. Rót cạn mấy bình trà bên thềm trăng khuya vẫn chưa hết ý, chưa cạn lời hàn huyên, tâm sự.
Một chiều, thầy đưa xem bản thảo tập thơ Nghìn Thu Rụng Tiếng Nguyệt Cầm Đầu Non, gần cả trăm bài thơ, vừa ngậm ngùi vừa tiêu sái, vừa nỗi niềm vừa xuất cốt, phiêu diêu. Tôi liền đọc một mạch như đọc lại chính mình và cảm hứng mần bài thơ Bửu Minh Trầm Tịch Nhiên này, riêng tặng vị thầy có tâm hồn thi sỹ, trước khi chia tay, tạm biệt, tiếp tục viễn phương hành:
Rừng nhạt nắng dừng chân Chư Păh
Đồi cao nguyên xanh biếc Biển Hồ Trà
Trại Mộ nao nao hồn cố quận
Bóng thông già vi vút gió chiều qua
Thương từng vệt rêu phong trên cổ tháp
Từng nét mờ ẩn hiện dấu thời gian
Con về còn trọn niềm tin* tưởng
Vẫn ngân rung bất tuyệt tiếng kinh vàng
Là tiếng lòng sâu xa hòa tâm cảm
Quyện chân thành thanh thản bước an nhiên
Bửu Minh trăng sáng thềm tịch chiếu
Diệu kỳ tan vô lượng kiếp ưu phiền
Tâm Nhiên
Thơ Thích Giác Tâm. Trích trong tập Nghìn Thu Rụng Tiếng Nguyệt Cầm Đầu Non (bản thảo)
***