Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hai bài thơ của nữ thi sĩ Louise Glück

15/10/202017:06(Xem: 4776)
Hai bài thơ của nữ thi sĩ Louise Glück

 Hai bài thơ của nữ thi sĩ Louise Glück

 

Hoang Phong phóng tác

 

 

            Xin gửi tặng độc giả xa gần hai bài thơ của nữ thi sĩ người Mỹ Louise Glück (1943-), vừa đoạt giải Nobel Văn chương, ngày thứ năm vừa qua, 08.10.20.

 Hai bài thơ của nữ thi sĩ Louise Glück-1

Bà Louise Glück  nhận giải từ tay của cựu Tổng thống Barack Obama  

 

 

      Bài thơ thứ nhất

 

Hoa diên vĩ hoang dại

 

Nơi tận cùng khổ đau,

Mở ra một cánh cửa.

Này bạn, tôi vẫn nhớ,

Bạn bảo tôi cái chết,

Cũng chỉ là như thế.

 

Trên đầu, tiếng xào xạc,

Dăm cành thông lay động.

Bỗng im lặng mênh mông.

Vài tia nắng yếu ớt,

Trên mặt đất khô cằn.

 

Quả vô cùng khiếp đảm,

Nếu phải tiếp tục sống,

Với tri thức còn nguyên,

Dưới đất đen u tối!

Tất cả đều trôi đi.

 

Nhưng bạn vẫn cứ sợ,

Rồi đây sẽ hóa thành,

Một linh hồn câm nín,

Sự chấm dứt đột ngột,

Một gò đất khô cằn.

 

Thế nhưng tôi vẫn nghĩ:

Phải chăng đấy chỉ là,

Những con chim nhảy nhót,

Trên đất trong khóm cây,

Vài khóm cây lè tè.

 

Tận bên kia thế giới,

Bạn còn nhớ hay chăng?

Tôi xin nói với bạn,

Tôi sẽ tìm được lời:

Những gì phải trở lại.

 

Thì cứ hãy trở về,

Để hoá thành tiếng nói.

Từ sự sống trong tôi,

Tuôn ra một dòng suối,

Muôn bóng râm xanh thẳm,

Màu biếc của biển khơi.

 

                  Bures-Sur-Yvette, 09.10.20

                    Hoang phong phóng tác

 

 

Hai bài thơ của nữ thi sĩ Louise Glück-2

Hoa diên vĩ (Iris)

 

            Tựa của bài thơ là The wil Iris (Hoa diên vĩ hoang dại) thế nhưng cũng là tựa của một tập thơ từng đoạt giải văn chương Pulitzer năm 1992. Nói chung "tình yêu" - anh anh, em em - thường là chủ đề quen thuộc trong thi ca, thế nhưng "cái chết" đôi khi cũng ám ảnh những tâm hồn sâu sắc. Phía sau cái chết là một cánh cửa, hay chỉ là một sự yên lặng mênh mông, những tia nắng lấp lánh trên mặt đấy khô cằn, vài con chim nhảy nhót giữa những khóm cây lè tè, hay chỉ là một dòng tri thức còn nguyên chôn vùi trong một hố đất đen u tối,? Dưới đây là nguyên bản tiếng Anh của bài thơ:      

 

 

The wild Iris

 

At the end of my suffering

there was a door.

 

Hear me out: that which you call death

I remember.

 

Overhead, noises, branches of the pine shifting.

Then nothing. The weak sun

flickered over the dry surface.

 

It is terrible to survive

as consciousness

buried in the dark earth.

 

Then it was over: that which you fear, being

a soul and unable

to speak, ending abruptly, the stiff earth

bending a little. And what I took to be

birds darting in low shrubs.

 

You who do not remember

passage from the other world

I tell you I could speak again: whatever

returns from oblivion returns

to find a voice:

 

from the center of my life came

a great fountain, deep blue

shadows on azure seawater.

 

                  Louise Glück (1992)

 

                  Bài thơ thứ hai

 

    Hai quả phụ

     

Mẹ và dì tôi ngồi bên nhau, 

Cùng chơi bài "Spite and Malice",

Thú giải trí quen thuộc trong gia đình,

Ngoại từng dạy cho đàn con gái.

 

Giữa mùa hè tiết trời nóng bức,

Mọi người đều ru rú trong nhà.

Ván bài hôm nay dì đang thắng,

Dì bốc được những lá bài tốt.

 

Hè năm nay, mẹ chẳng quen nằm giường.

Hè năm ngoái, mẹ nằm đất,

Để được gần bên cha.

Hấp hối, cha nằm im trên giường.

 

Dì chẳng nhường một nước bài nào cả,

Chẳng đoái gì đến niềm đau của mẹ.

Mỗi người một xấp bài bên trái,

Giữ chặt năm lá bài trên tay.

Đấy là cách chơi bài hay hơn cả,

Hay hơn cách chơi bài một mình.

 

Thú vị nào hơn ngày hôm nay,

Dưới bóng mát của một gian nhà.

Xưa ngoại dạy cho đàn con gái,

Cùng chơi bài tất còn có nhau.

Chẳng cần người bạn đường nào cả.

 

Suốt buổi chiều hôm đó, cả hai

Mê mải những lá bài trên tay.

Thế nhưng mặt trời vẫn còn đó,

Hắt xuống những tia nắng chói chan,

Khiến đám cỏ héo khô, úa vàng.

Thế rồi bất chợt, một cái gì đó,

Bỗng nhiên chấm dứt, thật phũ phàng.

 

Từ lâu dì đã quen chuyện đó,

Có thể đấy cũng là lý do,

Khiến dì chơi bài hay hơn mẹ.

Các lá bài của dì bay bổng.

Ai lại chẳng mong chờ điều đó. 

 

Chấm dứt một ván bài: phải chăng là mục đích?

Nào có ai là người thắng cuộc.

 

 

                  Bures-Sur-Yvette, 10.10.20

                    Hoang Phong phóng tác

 

            Chồng của dì đã mất từ lâu, chồng của mẹ vừa mới mất vào hè năm ngoái, niềm đau chưa nguôi. Ngoại dạy đàn con gái hãy cùng chơi bài với nhau, đấy là cách luôn được gần bên nhau, không cần tìm vui nơi người khác. Khi ván bài chấm dứt chẳng có ai là người thắng cuộc. Sự sống phải chăng cũng chỉ là như thế: một ván bài? Nguyên bản tiếng Anh của bài thơ trên đây:

 

    Widows

 

My mother's playing cards with my aunt,

Spite and Malice, the family pastime, the game

my grandmother taught all her daughters.

 

Midsummer: too hot to go out.

Today, my aunt's ahead; she's getting the good cards.

My mother's dragging, having trouble with her concentration.

She can't get used to her own bed this summer.

She had no trouble last summer,

getting used to the floor. She learned to sleep there

to be near my father.

He was dying; he got a special bed.

 

My aunt doesn't give an inch, doesn't make

allowance for my mother's weariness.

It's how they were raised: you show respect by fighting.

To let up insults the opponent.

 

Each player has one pile to the left, five cards in the hand.

It's good to stay inside on days like this,

to stay where it's cool.

And this is better than other games, better than solitaire.

 

My grandmother thought ahead; she prepared her daughters.

They have cards; they have each other.

They don't need any more companionship.

 

All afternoon the game goes on but the sun doesn't move.

It just keeps beating down, turning the grass yellow.

That's how it must seem to my mother.

And then, suddenly, something is over.

 

My aunt's been at it longer; maybe that's why she's playing better.

Her cards evaporate: that's what you want, that's the object: in the end,

the one who has nothing wins.      

 

                                          Louise Glück

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/08/2010(Xem: 8404)
Nằm ngủ ôm vầng trăng Đồi Cù nghiêng nghiêng mộng Đà Lạt chảy trong thân Tôi như rừng thông im bóng. Em như sương trăng áo mộng Đêm thu xưa quyến hớp hồn tôi.
04/08/2010(Xem: 6871)
Để hướng về Mùa Hiếu Hạnh Thiêng Liêng Để tưởng nhớ công ơn Công Đức Sinh Thành Để cùng nhau nhắc nhở Con Hiền Cháu Thảo Để đền đáp trong muôn một công đức Cha Mẹ Và lễ tạ Thù Ân Bốn Ơn Trọng cưu mang. Chúng tôi xin viết, cảm ơn quý vị đón nhận và phổ biến. Trân trọng, TNT Mặc Giang macgiang@y7mail.com
04/08/2010(Xem: 6251)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai Ơn sâu nghĩa nặng tình dài Đường quê lối nhỏ hoa cài thơm hương Tin yêu hòa ái mến thương Chia mưa sẻ nắng gió sương không màng Quê tôi còn đó đò ngang Chờ người lữ thứ miên man chưa về
04/08/2010(Xem: 6965)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai Thương sông, con nước chảy dài Nhớ biển, sóng vỗ miệt mài trùng dương Ra đi, vạn lý mù sương Rong rêu in bóng dặm đường phân ly Nhớ xưa, mấy thuở kinh kỳ Mà nay cũng lắm tư nghì hồn đau “Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều”
04/08/2010(Xem: 6692)
Rằng xưa, có Mục Kiền Liên Tu hành giác ngộ, chứng liền lục thông “Thiên nhãn”, “Thiên nhĩ” vô cùng “Tha tâm”, “Thần túc” thỉ chung rõ ràng “Túc mệnh”, “Lậu tận” vô can Đường xuôi lối ngược dọc ngang đi về Mục Liên bèn nhớ Mẫu hề
04/08/2010(Xem: 8975)
Bảy tình (thơ)
16/07/2010(Xem: 12499)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
28/06/2010(Xem: 25228)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 7991)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
16/05/2010(Xem: 6625)
Thầy từ phương xa đến đây, Chúng con hạnh ngộ xum vầy. Đêm nay chén trà thơm ngát, Nhấp cho tình Đạo dâng đầy. Mừng Thầy từ Úc tới thăm, Đêm nay trăng sáng ngày rằm. Thầy về từ tâm lan tỏa, Giữa mùa nắng đẹp tháng Năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567