Long Tuyền cổ tự thật trang nghiêm Tháp tháp cao cao hiển đạo huyền Tịch tĩnh hoa viên tùng thuyết pháp An bình cảnh tượng thủy khai thiền Minh âm điểu thoại trừ tham dục Lục diệp mai trương giải não phiền Thất Bảo Quan Âm giai tuyệt tác Nhất thời khách đáo kết lương duyên.
Thích Chúc Hiền (cảm tác)
Dịch thơ:
Vịnh Cảnh Chùa Long Tuyền
Long Tuyền chùa cổ thật trang nghiêm Các tháp cao ngời tỏa đạo huyền Vắng lặng vườn hoa cây nói pháp An bình cảnh trí suối khơi thiền Tiếng thanh chim hót vơi tham dục Lá biếc mai khoe lắng não phiền Thất Bảo, Quan Âm đều thắng cảnh Mỗi lần khách đến kết lành duyên.
Nhớ lại 50 năm trước:
Đêm trăng tròn hoa ngát chín tầng mây, niềm vui chưa kịp nở
Ngày Phật Đản hương bay ngàn cõi mộng, cảnh thảm đã hiện bày:
Nào ngờ đâu thường kỳ vía Phật, lệnh chánh quyền triệt hạ Phật Giáo kỳ
Xôn xao bừng dậy thấu đất trời, nổi lòng đau khôn tả cùng non nước.
Đôi khi rất đơn giản,
Ta nghĩ sống làm người,
Chết là coi như hết.
Ngắn ngủi một cuộc đời.
Vì thế ta sống vội,
Chỉ biết ngày hôm nay,
Không lo, không chuẩn bị
Cho thế giới sau này.
Không sợ luật Nhân Quả,
Không biết vòng Luân Hồi,
Ta buông xuôi, sống thả,
Kiểu bèo dạt mây trôi.
Không một lần tự hỏi,
Không vương vấn trong đầu:
Chúng ta từ đâu đến,
Và chết sẽ về đâu?
Có chàng lãng tử lưu lạc giang hồ từ thuở thiếu thời, bỗng một hôm nghe hung tin người cha già rời bỏ trần gian, lòng bồi hồi nhớ đến lời dặn dò năm xưa của cha, lời rằng, “Dù vui, buồn giữ mãi cái tâm trong.” Chàng lãng tử đó là nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du, một trong mười nhà thơ -- gồm Bạch Xuân Phẻ, Hàn Long Ẩn, Huyền, Nguyên Lương, Nguyễn Hoàng Lãng Du, Nguyễn Phúc Sông Hương, Nguyễn Thanh Huy, Phan Thanh Cương, Trần Kiêm Đoàn, và Tuệ Lạc -- có mặt trong tuyển tập thơ Tâm Trong vừa mới được nhà sách lớn nhất thế giới Amazon phát hành vào trung tuần tháng 12 năm 2015.
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du:
Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du
Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1]
Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long
Khái niệm lịch sử của Thăng Long
Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay.
Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.