Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyện thơ Phật giáo: Bốn Sinh Mạng Bám Khúc Cây

19/10/201822:09(Xem: 8296)
Truyện thơ Phật giáo: Bốn Sinh Mạng Bám Khúc Cây

phatthichca_painting1
BỐN SINH MẠNG

BÁM KHÚC CÂY

 

Ở Ba La Nại xa xưa

Trị vì là một vị vua lâu đời

Vua sinh ra một con trai

Lớn lên độc ác ít ai sánh cùng

Kiêu căng, bạo ngược, tàn hung

Khiến người hầu cận, tùy tùng không ưa

Trong triều đình, ngoài cung vua

Mọi người tránh né chàng từ lâu nay

Như xa quỷ đói quanh đây

Như xa rắn độc thường hay cắn người

Danh chàng nổi khắp mọi nơi

“Ông hoàng Ác Độc” tiếng đời tanh hôi.

*

Một hôm hoàng tử đi bơi

Tới dòng sông nọ êm xuôi sóng vàng

Nhiều người theo phục vụ chàng

Bỗng đâu giông tố phũ phàng nổi lên

Đất trời mù mịt bốn bên,

Tỏ ra anh dũng vượt trên hàng đầu

Chàng ra lệnh vài quân hầu

Theo chàng giỡn sóng há đâu sờn lòng:

“Đưa ta ra tắm giữa dòng

Tắm xong trở lại bờ sông bên này.”

Đám quân hầu kinh ngạc thay

Nhưng đành tuân lệnh chàng ngay tức thì,

Khi bơi ra giữa dòng kia

Họ ngầm đồng ý: “Còn chi may bằng

Đây là dịp quý như vàng

Chúng ta hãy thủ tiêu hoàng tử đi,

Con người ác độc kể chi

Nhà vua nào có dễ gì biết ra,

Tên ác quỷ, đồ yêu ma

Thân vùi sông nước, chúng ta được nhờ.”

Nói xong là họ bất ngờ

Dìm chàng hoàng tử rất ư bạo tàn

Xuống dòng sông cuộn sóng vàng

Bão giông gầm thét ầm vang hãi hùng.

Khi quay trở lại bờ sông

Mọi người vặn hỏi, họ cùng nhau thưa:

“Chúng tôi phải trở lại bờ

Chắc là hoàng tử bơi xa trước rồi

Về Ba La Nại êm xuôi

Ông bơi giỏi nhất trên đời thua ai.”

Mọi người về lại lâu đài

Khi vua cha hỏi con trai của mình

Cả đoàn vội vã tâu trình

Tưởng rằng hoàng tử về thành từ lâu,

Vua bèn tụ họp quân hầu

Đi tìm hoàng tử nào đâu thấy gì.

Lúc này ngoài bến sông kia

Gió mưa ào ạt, bốn bề tối đen

Sóng xô hoàng tử nổi chìm

Tưởng như thần chết kề bên bắt người

May thay tay với tới nơi

Thân cây khô nọ đang trôi giữa dòng

Chàng bèn nắm chặt chẳng buông

Khóc than sợ chết não nùng canh thâu.

*

Trước đây có một nhà giàu

Ở Ba La Nại, ốm đau qua đời

Ông ta chôn giấu một nơi

Tiền vàng trị giá bốn mươi triệu đồng

Kho tàng vùi tại bờ sông

Luyến lưu tài sản nên ông hóa thành

Một con rắn bò quẩn quanh

Quanh nơi chôn giấu để canh chừng vàng.

Gần nơi đó có một chàng

Chết đi cũng giấu kho tàng bờ sông

Tiền vàng ba chục triệu đồng

Vì tham tài sản trong vùng nói trên

Chết rồi mà vẫn không quên

Tái sinh làm chuột bò bên kho tàng.

Khi trời giông tố phũ phàng

Rắn cùng với chuột sóng vàng cuốn trôi

Tổ thời nước ngập mất rồi

Cả hai sợ chết nên bơi vội vàng

Vừa khi hoàng tử trôi ngang

Khúc cây khô đó giữa đường cứu nguy

Rắn và chuột mừng kể chi

Mỗi con bám lấy cây kia một đầu.

Trên bờ sông mọc từ lâu

Cây bông gòn nọ vươn cao lá dầy

Vẹt xanh làm tổ bao ngày

Hôm nay bão lớn nên cây đổ nhào

Chìm vào sóng nước thét gào

Vẹt ta muốn trốn nhưng nào dễ bay

Nên đành đậu lại khúc cây,

Bốn sinh mạng bám tại đây chòng chành

Cùng nhau “hoàng tử triều đình

Kề bên rắn, chuột, vẹt xanh” xuôi dòng.

*

Có ông thầy ở ven sông

Đang tu khổ hạnh, sống trong túp lều

Rừng khuya nghe vẳng tiếng kêu

Từ tâm nổi dậy thầy liều cứu nguy

Nhảy sông kéo khúc cây kia

Vào bờ yên ổn há chi ngại ngần

Bốn sinh mạng được an phần

Về lều hong lửa vô ngần mừng vui

Thầy cho sưởi ấm thân người

Rồi cho ăn uống nghỉ ngơi tốt lành,

Chỉ riêng hoàng tử bất bình

Vì thầy không tiếp đãi mình ưu tiên

Vừa bực bội, vừa muộn phiền

Chàng ôm mộng trả thù riêng sau này.

Sau khi khoẻ khoắn ít ngày

Nạn nhân từ biệt ông thầy ra đi.

Rắn thưa: “Ơn huệ khắc ghi

Bạc vàng thầy có cần chi sau này

Gọi con, con sẽ đến ngay.”

Chuột thưa: “Xin nhớ ơn thầy há quên

Khi thầy cần bạc cần tiền

Gọi con con sẽ dâng liền tạ ơn.”

Vẹt: “Con chỉ có gạo thơm

Họ hàng con sẽ kính dâng biếu thầy.”

Cuối cùng từ biệt nơi đây

Chàng kia sân hận còn đầy, vẫn thưa:

“Sau này tôi lên làm vua

Thầy cần chi tới tôi đưa cúng dường.”

*

Bốn mùa xoay chuyển bình thường

Ông thầy một buổi rời rừng ra đi

Thử lòng bốn nạn nhân kia

Xem lời ơn nghĩa còn gì hay không

Thầy đi dọc suốt bờ sông

Gọi tên rắn, chuột để mong giúp mình,

Cả hai đều rất nhiệt tình

Kho tàng chôn giấu tâm thành chỉ ngay

Thầy đâu có nhận hôm nay

Hẹn quay lại lấy một ngày tương lai,

Khi thầy lên tiếng: “Vẹt ơi!”

Vẹt bay ngay lại nhắc lời hứa xưa

Sẵn sàng thực hiện bây giờ

Thầy vui nói vẹt cứ chờ ít lâu.

Cuối cùng thầy rảo bước mau

Về kinh đô để ngõ hầu gặp vua

Ngài đi khất thực hiền từ

Đi quanh đường phố để chờ vào cung.

Chợt đâu đám rước tưng bừng

Bất ngờ đi tới vô cùng oai nghi

Vua là hoàng tử xưa kia

Giờ lên ngôi báu trị vì quốc gia

Lưng voi vua cưỡi kiêu sa

Trang hoàng lộng lẫy thật là đẹp thay

Chợt vua trông thấy dáng thầy

Nhủ thầm: “Thuở trước tên này khinh ta

Giờ đây không cửa không nhà

Lang thang khắp chốn để mà ăn xin

Về đây hắn sẽ phao tin

Kể công cứu giúp, gây phiền lắm đây

Ta nên trừ khử hắn ngay.”

Vua ra lệnh bắt trói thầy giải đi

Mỗi khi tới ngã tư kia

Lại dừng chân đánh rất chi đọa đày

Lệnh vua: “Hãy giải tên này

Ra ngoài thành phố phơi thây, chặt đầu

Làm gương cho kẻ về sau

Xin ăn quen thói từ lâu biếng lười.”

Quân hầu theo đúng lệnh thôi,

Dù thân tơi tả, dù người đớn đau

Miệng ngài chỉ nói một câu:

“Cổ nhân đã dạy đúng sao vô cùng

Vớt cây củi mục giữa dòng

Còn hơn vớt kẻ tanh lòng, vô ơn!”

Chung quanh dân chúng nghe than

Cùng nhau thắc mắc hỏi han ông thầy

Thầy bèn kể lại cho hay

Đầu đuôi câu chuyện từ ngày cứu vua.

Dân nghe bất mãn vô bờ

La lên tức giận: “Ai ngờ manh tâm

Vô ơn, độc ác, bất nhân

Vua mà như vậy giúp dân được gì

Chỉ gây tai họa hiểm nguy

Hãy mau trừ khử, còn chi mong nhờ.”

Dân Ba La Nại bất ngờ

Tấn công vũ bão tên vua kia liền

Gươm đao, gậy gộc, cung tên

Giết vua độc ác chẳng thèm tiếc thương.

Tôn vinh thầy làm quốc vương,

Ngài lên cai trị bốn phương an lành.

*

Một ngày ngài rời kinh thành

Về thăm bạn cũ ở quanh sông vàng

Tùy tùng theo cả một đoàn

Rừng xanh, sóng nước âm vang tiếng ngài:

“Rắn ơi!” rồi đến “Chuột ơi!”

Cả hai xuất hiện. Giữ lời. Hiến dâng

Hai kho tàng chôn ở gần

Quốc vương ra lệnh cho quân đào về.

Rồi ngài gọi đến vẹt kia

Vẹt liền bay lại đứng kề một bên

Thưa rằng lời hứa chẳng quên

Họ hàng nhà vẹt xin tìm gạo ngay.

Ngài vui: “Thật tốt lành thay

Gạo thời để đấy, hôm nay chưa cần.”

Cả ba sinh vật quây quần

Theo chân bạn cũ nương thân triều đình

Quốc vương tiếp đãi nhiệt tình

Như là khách quý của mình từ lâu.

Quốc vương nhân hậu hàng đầu

Giúp người nghèo khó ai đâu sánh cùng.

Quốc vương ngự trị trong cung

Cùng ba sinh vật sống chung suốt đời

Luôn hòa hợp, mãi thảnh thơi

Đến khi quá vãng họ thời tái sinh

Đi theo nghiệp của riêng mình

Thật là tốt đẹp, hương lành thơm đưa.

*

Nhận Diện Tiền Thân

     Thầy tu khổ hạnh về sau làm quốc vương là tiền thân Đức Phật. Hoàng tử về sau trở thành vua độc ác là Đề Bà Đạt Đa. Rắn là Xá Lợi Phất. Chuột là Mục Kiền Liên. Vẹt là A Nan.

 

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

(thi hóa, phỏng dịch theo bản văn xuôi

FOUR IN A LOG

của Ven. Kurunegoda Piyatissa & Tod Anderson)

______________________________________________________

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/09/2010(Xem: 51178)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 6648)
Mười con nhạn trắng về tha Như Lai thường trụ trên tà áo xuân Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm
08/09/2010(Xem: 7133)
Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
06/09/2010(Xem: 7884)
Văn Tế Thiên Thái Trí Giả Tác giả Đại Sư Tuân Thức Việt dịch: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm *** 1. Nhất tâm đảnh lễ Thiên Thai Trí Giả trong núi Đại Tô tu Tam Muội Pháp Hoa Tâm tâm tịnh thường lại qua pháp giới Như mặt nhật trên không chẳng trụ không Ba ngàn thật tướng tức khắc viên thông Tám vạn trần lao đều đồng chân tịnh. Xưa hội kiến Linh Sơn còn hoài niệm Nay toàn thân bảo tháp thấy rõ ràng Nếu chẳng cùng sư Nam Nhạc tương phùng Ai biết được tướng thâm sâu thiền định?
06/09/2010(Xem: 8670)
Trước khi viết loạt bài thơ trong phần 1 (Hương Đạo Pháp) của thi tập này, tôi đã có gần 900 bài thơ, xoay quanh các đề tài như quê hương đất nước, lịch sử, địa lý, giáo dục, cuộc sống hiện thực, triết lý sắc không, nhân sinh quan - vũ trụ quan Phật giáo, xưng tán Phật và Bồ-tát….. Tôi đang tạm thời dừng lại công việc sáng tác và chuẩn bị làm một số công việc chuyên và không chuyên khác. Nhưng chợt nhớ lại nhiều năm trước đây, thỉnh thoảng có trao đổi với vài vị thân, quen, những người đã đọc gần hết thơ tôi. Họ nói, trong số gần 900 bài thơ đã đọc qua, tuy cũng có nhiều bài khuyến tu, nhiều bài mang tính giáo lý sâu sắc, có khả năng tịnh hóa lòng người, tuy nhiên những bài đó nằm tản mạn chưa tập trung. Hơn nữa cũng cần một loạt bài có nội dung giáo lý căn bản với thuật ngữ, danh từ, pháp số thông dụng, nếu có thể cho thành một tập riêng biệt thì càng tốt.
06/09/2010(Xem: 7613)
Phù Sinh Nhiễm Thể Ca, TNT Mặc Giang
06/09/2010(Xem: 7947)
Mùa hạ mà hơi lạnh xông ướp cả gian phòng. Tắt điện, thắp lên ngọn bạch lạp cắm vào một quả thông, nhựa sống vẫn còn mơn man đâu đây, nồng nàn. Mấy mươi năm hiên ngang sừng sững, một cơn bão thổi qua, thông bật gốc ngã quỵ, vương vãi xác xơ. Có gì tồn tại mãi đâu! Rồi tất cả, cũng bị thiêu rụi như ngọn bạch lạp đang cháy dỡ…
06/09/2010(Xem: 9679)
Được sinh ra, lớn lên, đi vào trường học, đi vào trường đời, rồi dong ruổi muôn phương, và dù có ra sao, Quê Hương vẫn Còn Đó ! Từ thuở phôi sinh xuất hiện Lạc Hồng, Hùng Vương - Văn Lang, xuyên qua chiều dài lịch sử, cấu thành mảnh dư đồ Chữ S, với Bắc Nam Trung gấm vóc, với núi non hùng vĩ, biển rộng sông dài, với những tên gọi thân yêu Huế - Sài Gòn - Hà Nội, với từng thời kỳ dù có qua đi, không gian dù có biến đổi, và dù cho vật đổi sao dời, Quê Hương vẫn Còn Đó !
06/09/2010(Xem: 7808)
Người phương tây thường nói “trẻ ước mơ, già hoài niệm”, nhưng sau khi đọc xong tập thơ Hành Trình Quê Mẹ, tôi thấy tác giả, một nhà thơ ở tuổi tri thiên mạng, nhưng lại luôn ghi lòng tạc dạ, nâng niu trân trọng các giá trị được tài bồi bởi tiền nhân; tác giả còn hoài bảo, mơ vọng một hướng sống thiết thực cho người Việt Nam nói chung. Với Mặc Giang, hoài niệm và ước mơ nào có hạn cuộc bởi tuổi tác. Hoài niệm và ước mơ ấy đã trở thành chất liệu tài bồi cho dòng thơ với chủ đề Hành Trình Quê Mẹ tuôn chảy không mỏi mệt, để nguồn thơ của thi nhân vốn nhào nặn từ cuộc sống, trở lại phụng sự cuộc sống ấy, trở thành niềm tự hào kiêu hãnh của trào lưu thi ca hiện đại.
06/09/2010(Xem: 10140)
Qua năm mươi năm, tiếp bước tiền nhân tôi trót vào con đường khảo cứu lịch sử văn học dân tộc. Tôi đã đọc rất nhiều thơ và cũng làm được một số việc cho các thế hệ thơ ca. Nhưng khi may mắn được đọc tập thơ Quê Hương Nguồn Cội (và khoảng 650 bài khác nữa) của nhà thơ Mặc Giang, một tập thơ chan chứa tình quê hương dân tộc, với tâm hồn bao la, sâu rộng bằng trái tim và dòng máu của người Việt Nam, tập thơ đã làm cho tôi hòa đồng trong tác phẩm không còn phân biệt được tâm tư và cảm giác của mình và chỉ còn là một con tim, một dòng máu chung của dân tộc trộn lẫn vào sự cấu tạo chung trải qua mấy ngàn năm lịch sử của núi sông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567