Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển Tập Thơ Tánh Thiện_2018

04/09/201810:18(Xem: 9168)
Tuyển Tập Thơ Tánh Thiện_2018




Tuyen Tap Tho_Tanh Thien_2018

Thơ là một thể loại ngôn ngữ gắn liền từ xa xưa với Phật Giáo. Mở bất kỳ một kinh nhật tụng nào, dù truyền thốngNam Tông hay Bắc Tông, bạn cũng sẽ thấy thơ. Đôi khi, kinh nhật tụng là thơ, ngay từ dòng đầu tới dòng cuối. Thơ, hiển nhiên là một phương pháp của đạo.

Thơ là một dạng ngôn ngữ cô đọng, từ rất xưa đã gắn liền với nhà Phật. Kinh Pháp Cú là thơ. Một phần rất lớn trong Kinh Tiểu Bộ là thơ. Trong nhiều kinh khác, sau khi Đức Phật thuyết giảng, Ngài tóm tắt bằng mấy đoạn thơ.

Hãy hình dung một tạp chí Phật giáo, dù in trên giấy hay trên mạng, không có mục thơ.  Có vẻ gì như dị thườngnếu không có thơ. Tương tự, hãy hình dung rằng dân tộc Việt Nam không có ca dao.

Nói như thế, không có nghĩa thơ là đạo. Chỉ có thể nói ngược lại, rằng với người đã hiểu xong ý Đức Phật, dù có lời hay không có lời cũng vẫn tương ưng với đạo. Nơi đó, động hay tịnh, nói hay nín đều tương ưng với giới định huệ.

Do vậy, khi chúng ta đọc kinh nhật tụng mỗi ngày -- mở trang kinh ra, khép trang kinh lại, lời lời là thơ – từng âm vang, kể cả từng khoảng tịch lặng, đều là các nỗ lực tương ưng với giới định huệ

Trong Kinh Ud 5.6, có kể về nhà sư trẻ Sona, học trò của Ngài Maha Kaccayana (tiếng việt thường gọi là Maha Ca Chiên Diên), một lần, sau khi rời hạ, ghé thăm tu viện Anathapindika tại Vườn Jeta, thành Savatthi, được Ngài Ananda sắp xếp nơi ngủ cùng chỗ với Đức Phật. Kinh kể rằng, hầu hết trọn đêm, Đức Phật ngồi ngoài trời, rồi mới rửa chân vào phòng. Nhà sư Sona cũng làm như thế.

Tới gần hết đêm, thức dậyĐức Phật nói với nhà sư Sona rằng ta muốn nghe ngươi đọc tụng Pháp (I would like you to recite the Dhamma). Kinh kể rằng lúc đó, nhà sư Sona đọc trọn 16 kinh trong Aṭṭhaka Vagga. Đức Phật nghe xong, khen ngài Sona đọc rõ ràng, không sai, làm cho nghĩa minh bạch.

Kinh này cho thấy rằng: Đức Phật và chư tăng thời xưa ngủ ít, sống gần thiên nhiên (phần lớn trong đêm là ngồi ngoài trời); kinh nhật tụng được truyền dạy bằng thơ vì 16 kinh nêu trên là trong thể thơ; khi đọc tụng, phải đọc cho nghe rõ từng chữ, không sai (không ê a khó nghe)…

 

Với truyền thống Phật giáo nhiều ngàn năm sống với thơ như thế, chúng ta dễ hiểu vì sao các nhà sưthường làm thơ.

Thi sĩ Tánh Thiện cũng có một nỗ lực tương tự để tiếp cận với Pháp. Có khi chúng ta thấy anh làm thơ mỗi ngày, hay mỗi tuần. Thơ của anh là thuần về đạo pháp, không bận tâm bàn chuyện đời.
Nhu Hung_Tanh Thien

Nhà thơ Tánh Thiện  (bên phải) và pháp hữu Như Hùng

Thơ với Tánh Thiện có vẻ như một pháp thiền, một cách vào định.

Hãy hình dung rằng, khi bạn đi bộ, phải định tâm mới an toàn băng ngang qua một ngã tư, hay ngã sáu. Bạn phải chú tâm tới không gian quanh mình. Xe các loại có thể từ các hướng tới gần. Có lúc nghe tiếng máy xe hay tiếng còi từ sau, từ trước, từ hai bên… Có lúc bạn thấy những xe hay người chuyển động phía trước, phía bên hông… Bạn phải chú tâm từng khoảnh khắc để giữ an toàn, để khỏi bị xe đụng.

Tương tự, khi vượt sông, khi vượt qua cõi ái dục để tới bờ an toàn bên kia… bạn cũng phải định tâm để không bị sóng gió cuốn trôi.

Đối với Tánh Thiện, làm thơ là đối diện với một tự điển nhiều chục ngàn chữ, là lựa chọn chữ để ngợi ca Tam Bảo, để lấy thơ làm hành trang, làm cây gậy chống qua rừng hiểm nạn. Làm thơ không phải băng qua ngã tư, ngã sáu. Làm thơ là băng qua vô số ngã rẽ của ngôn ngữ. Làm thơ, hễ sơ suất, nếu không phạm giới cũng sẽ rơi vào đùa cợtlẳng lơ. Nhưng Tánh Thiện từng dòng thơ đều là từng bước đi thẳng qua các ngã tư an toàn.

Thơ Tánh Thiện, mỗi bài thường là ba đoạn, thỉnh thoảng có bài bốn đoạn, và thường mỗi đoạn thơ gồm bốn dòng. Thơ anh làm trong nhiều thể loại: lục bát, bốn chữ, năm chữ, tám chữ, song thất lục bát…

Có nhiều cơ duyên để Tánh Thiện làm thơ. Có khi anh viết là để tự nhắc nhở rồi tiến tu  (như trong bài thơ nhan đề Viết Thật Lòng Mình), có khi nói về nguồn vui chia sẻ đơn sơ cuối đời (bài Vui Niềm Hạnh Phúc).

Có khi Tánh Thiện làm thơ để cúng dường, để biết ơn các bậc tiền bối. Như khi anh ngợi ca Hòa Thượng Thích Quảng Đức:

Ngọn lửa từ bi muôn đời luôn rực sáng
Chuyển hoá lòng người đánh mất cả tim gan
Kẻ  chuyên quyền đều ngưỡng kính quy hang
Thân bất động an nhiên trong lửa táp.
(bài Ngọn Lửa Từ Bi).

Hay như khi họa bài “Dòng Tào Khê” của Thầy Nhất Hạnh, Tánh Thiện viết:

Tào Khê dòng nước BIẾT
Hướng về cõi phương Đông
Cuốn trôi dòng sanh tử
Sạch hết chốn bụi trần.

Có khi Tánh Thiện làm thơ để bày tỏ lòng biết ơn các bậc  tôn túc, như với quý ngài Thích Mãn Giác, Thích Trí Tịnh, Tuệ Sỹ, Thích Tâm Ngoạn, Thích Từ Lực, Thích Nguyên Tạng, Thích Tánh Tuệ, Phạm Công Thiện…

Có khi Tánh Thiền làm thơ để bày tỏ đồng cảm với tình thân hữu, như với Tâm Huy Huỳnh Kim Quang, Tâm Thường Định (Bạch Xuân Phẻ)…

Trong một bài phơi phới tuyệt vời có nhan đề “Chỉ Là Cánh Chim Rong” để dâng Thầy Lê Mạnh Thát, nhà thơ Tánh Thiện viết:

Tóc vẫn mọc mà tâm hồn vẫn sáng
Sáng như làn mây trắng mãi thong dong
Ta đến đây chỉ là cánh chim rong
Bay phất phới trên vòm trời sanh tử…

Nhiều đề tài khác cũng trở thành thơ, đối với Tánh Thiện. Như thơ viết trong mùa Phật Đản, viết cho Lễ Vu Lan…

Tánh Thiện viết trong bài “Vu Lan Nhớ Mẹ” những dòng xúc động, như:

Vu Lan nhớ mẹ bao giờ
Dù bao cách biệt hai bờ đại dương
Mẹ là bài hát quê hương
Là đôi vai nhỏ chín thương sớm chiều

Thơ Tánh Thiện cũng bày tỏ nỗi lo về quê hương, về lãnh thổ, về Biển Đông. Nhưng tận cùng vẫn là những lời thơ tha thiết khuyến tu.

Như trong các dòng thơ sau, trích:

Tư duy ngồi nghiệm lại
Vạn pháp vốn giai không
Duyên sanh càng như huyễn
Phật pháp một tấm lòng (bài Như Huyễn)

Cuối đời học mãi chưa xong
Duyên sanh diệu hữu pháp không nhiệm mầu
Ta về nhớ Phật ân sâu
Ta về quán chiếu từng câu thấm vào (bài Một Cõi Thong Dong)

Tứ đại chỉ là vay mượn
Cuộc đời tạm bợ mà thôi
Ta chẳng có gì để mất
Lo gì gió cuốn mây trôi (bài Về  Nguồn)

Bao năm ta từng thở
Mà quên hẳn từ lâu
Do sống đời thất niệm
Gây bao nỗi khổ sầu
(bài Hãy Thức Dậy Mà Đi)

Rồi một ngày sẽ đến
Ta về lại chính ta
Như lửa về với lửa
Tất cả rồi cũng qua
(bài Còn Bản Thiền Ca)

 

Thơ Tánh Thiện tuyệt vời như thế. Dễ hiểuđơn giản, trực tiếp, giàu cảm xúc, không mơ hồ, không phức tạp. Đó là những dòng thơ viết trong truyền thống nhiều ngàn năm của Phật giáo, là lời khuyến tu chân thành của tác giả, là cảm xúc tự nhiên của người con Phật, là những bước đi của ngôn ngữ trên ngàn dặm đường qua sông. 
Và cũng là lời thảng thốt của Tánh Thiện giữa cõi vô cùng tịch lặng: từng chữ bước qua sông.


Nguyên Giác





pdf-iconTuyển Tập Thơ Tánh Thiện_2018








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/10/2015(Xem: 8544)
Thầy đi một sáng mùa thu Trong cơn lốc thổi Vô thường tử sinh
11/10/2015(Xem: 6312)
Có người khách hỏi lão hòa thượng: Pháp sư, con muốn hỏi ngài một vấn đề hơi bất kính một chút có được không ạ? Lão hòa thượng: Xin ông cứ nói! Người khách: Lúc ở nơi dân chúng đông đúc thì ngài ăn chay, vậy khi ở một mình trong phòng ngài có ăn thịt không? Lão hòa thượng hỏi người khách: Ông tự lái xe tới đây phải không? Người khách trả lời: Vâng, đúng ạ! Lão hòa thượng: Khi lái xe cần thắt dây an toàn, xin hỏi ông là ông thắt vì sự an toàn của bản thân hay vì cảnh sát? Nếu như vì bản thân mình thì có hay không có cảnh sát ông sẽ vẫn đều thắt thôi. Người khách: A, Con hiểu rồi!
08/10/2015(Xem: 11202)
Khi chim còn sống trên đời Chim ăn kiến nhỏ thấy thời khó chi, Nhưng khi chim bị chết đi Kiến thời ăn nó có gì khó đâu.
06/10/2015(Xem: 11649)
(1) Con nguyện luôn yêu thương tất cả chúng sanh Bằng cách xem họ quý báu Hơn ngọc như ý Để thành tựu mục tiêu tối thượng.
06/10/2015(Xem: 11070)
Con xin đảnh lễ tâm đại bi. Con xin đảnh lễ chư đạo sư cao cả. Con xin đảnh lễ chư Bổn Tôn, Là chư vị ban nguồn cảm hứng về lòng tín tâm và sùng mộ.
05/10/2015(Xem: 7476)
Lại thêm thu nửa trở về, Nghĩ thân đất khách mà tê tái buồn. Nhớ về quê mẹ cội nguồn, Khi nhìn đôi cánh lá vàng nhẹ bay, Nhón chân dạo bước vườn ngoài, Nghiêng mình nhặt lá rụng rơi bên thềm. Sắp từng chiếc lá gọi tên, Thì thầm tên lá theo miền thế gian. Cảnh thu dễ gợi u buồn, Hỏi sao tâm để rộn ràng triền miên. Nhắn lòng ta ráng tịnh yên, Đem sao cho được chữ Thiền vào Thu !
03/10/2015(Xem: 14656)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
02/10/2015(Xem: 9312)
Bài thơ vô cùng súc động Do not stand at my grave and weep (Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ) của Mary Elizabeth Frye (1905-2004) đã được dịch ra không biết bao nhiều thứ tiếng và đã được đọc lên, phổ nhạc, trình bầy không biết bao nhiêu lần bởi các ca sỹ trứ danh. Mary Elizabeth Frye là một bà nội trợ người Mỹ, làm nghề bán hoa. Bà được cả thế giới biết tên vì một lý do độc nhất : bà là tác giả bài thơ « Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ », được viết vào năm 1932. Mary Elizabeth sinh ra ở Dayton, Ohio. Mới ba tuổi đã mồ côi. Sau đến ở Baltimore, Maryland. Năm 27 tuổi lập gia đình với Claud Frye, ông làm nghề buôn bán quần áo. Bài thơ làm bà sau này trở nên nổi tiếng được viết trên một chiếc túi mua sắm, lấy cảm hứng từ chuyện một cô gái trẻ tuổi, Margaret Schwarzkopf, ở với gia đình Frye, đã không thể đến thăm mẹ đang hấp hối ở Đức, vì cô gái là dân Do Thái. Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 12 dòng, không có chủ đề. Frye thấy bạn bè thích nên đã sao nhiều bản và lưu hành, nhưng chưa bao giờ
29/09/2015(Xem: 6822)
Dáng ngồi như núi như non Trăm năm sương gió vẫn còn uy nghiêm Trên cao sừng sững bóng hiền Mưa sa nắng chiếu địa thiên lưu tình Giữa đời lặng lặng thinh thinh Tỏa hương đạo hạnh hậu sinh hồi đầu Tử tôn gánh đội ân sâu Chuông ngân trưa tối, kinh cầu sớm khuya Bước chân hoằng độ đi, về Vườn ươm tỏa bóng bồ đề mát tươi Như non như núi không dời Đạo thành như ý, dáng ngồi thiên thu.
27/09/2015(Xem: 7823)
Nhìn lá rơi VÔ THƯỜNG luôn biến hoại Thân xác nầy cũng duyên hợp tử sanh Vũ trụ kia do tứ đại hợp thành Đâu còn mãi mà thâu gom chấp thủ !
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567