Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tư Tưởng Đạo Gia theo Trang Tử

17/04/201806:37(Xem: 10758)
Tư Tưởng Đạo Gia theo Trang Tử
 
trang tu 
 
 
TƯ TƯỞNG ĐẠO GIA
THEO TRANG TỬ
 
Thiên địa mạc đại vu
thu hào chi mạt,
nhi đại sơn vi tiểu;
Mạc thọ vu thương tử,
nhi “Bành Tổ” vi yểu.
Thiên địa dữ ngã tịnh sinh,
Vạn vật dữ ngã vi nhất.
 
Dịch:

Thiên hạ không có gì lớn bằng cái đầu
 chiếc lông của chim và thú vào mùa thu;
Còn núi Thái thì nhỏ.Không có gì
 sống lâu bằng đứa trẻ chết non;
 Ông “Bành Tổ” thì số chết yểu.
 Trời đất với ta cùng sinh ra,
Vạn vật với ta là một.
 
Diễn thơ:
 
Trong thiên hạ có chi là lớn
Để sánh bằng đầu ngọn lông chim
Thái sơn dù cố công tìm
Vẫn còn thấy nhỏ, huốt niềm tin to.
  
Trong cuộc đời sợ lo làm chắc
Sống lâu bằng cái chết trẻ non.
Tục rằng: Bành Tổ không hơn,
Cũng sinh cũng diệt, cũng còn sinh ra.
 
Thế là trời đất với ta
Vạn vật thế giới cũng là một thôi.
 
banh to
KHÁI NIỆM VỀ BÀNH TỔ
(CHUYỆN VUI NƯỚC VIỆT)
 
Chữ “Bành” là tên người Việt gọi,
Như chữ “Bàn” tiếng nói ngàn xưa
Họ “Bàn Cổ” Việt Nam ta
Chim “Hồng” tung cánh trải qua muôn đời.
 
Từ “Bàn Cổ” sơ khai lập quốc
Lấy “Hồng Bàng” làm họ chính danh
“Hồng Bàng” Cổ sử hiển vinh,
“Việt Nam Quốc Tộc” trở thành muôn năm.
 
“Hồng Bàng” cổ, có danh “Bành Tổ”
Tương truyền rằng: “Mồ mả ông còn
Địa thiêng, linh khí núi non
“Quảng Đông” xưa của nước“Nam Việt” mình,”
  
Người Tàu cướp nước mình thuở trước
Thời Trung Hoa “Tam Quốc Chí” xưa
Họ “Bành” tên “Tổ” nước ta
Là người gốc “Việt” có thừa bản năng,
 
Người Trung Hoa cho rằng dân họ
Nhưng nào ngờ đã rõ căn nguyên
Họ “Bành” tên “Tổ” tương truyền
Gốc người “Lạc Việt” đất thiêng linh mầu.
 
“Tam Quốc Chí” ghi sâu trong sách,
“Tam Ngũ Lược Kỳ” mách rõ ra,
“Bàn”=“Bành” âm khác, nhưng là
Trại âm nhưng chẳng khác xa giòng truyền.
 
Đời nhà “Tống” nâng duyên “Bành Tổ”
Sống ngàn năm chẳng hổ nhân tài
Lạ kỳ có một không hai
Trên đời nầy chẳng có ai sánh bằng.

---------oOo---------
 
banh to 
 
 
 
 
SỰ TÍCH BÀNH TỔ
(GỈA THUYẾT TRUYỆN TÍCH)
 
Ngày xưa kia có gia đình nọ
Sinh cháu trai tên họ “Bành Nhi”,
Mặt mày sáng sủa phương phi,
Nhìn cháu kháu khỉnh ai bì được đâu.
 
Nhưng bỗng sự buồn rầu đưa đến!
Cho gia đình: “Vận mệnh cháu Nhi!
Có một thầy bói tiên tri,
Biết rõ cháu bé khó thời sống lâu”!
 
Đây là sự nhiệm mầu tướng số
Ông thất kinh, thố lộ việc nầy !
Than rằng: “Tội nghiệp cháu thay !
Thằng bé đỉnh ngộ, không may kiếp người!
 
Mới mười (10) tuổi cuộc đời vắn số”!
Cha mẹ đều lo sợ mất con
Thốt lời cầu khẩn nỉ non :
“Nhờ thầy giúp đỡ cứu con thoát nàn.”!
 
 Thầy có kế tìm đàng cứu được
Phải nghe lời từng bước của ông
Giúp lời cầu cứu: “Hanh thông
Sáng mai sắm sẵn cho ông “mâm đào”
 
Và tuyệt đối trái nào cũng tốt,
To, đẹp, còn ngon ngọt, dáng xinh,
Cậu bé lên ngọn núi linh
Nơi nào có cảnh hữu tình, dừng chân,
 
Có suối chảy, có lân, phụng múa,
Có hạc bay, mây bủa bách tùng
Có chim ca, hót hài lòng,
Có tảng đá trắng, hai “Ông Tiên” ngồi.
 
Bàn cờ tướng phân ngôi, phân thứ
Nghe âm thanh tiêu tứ nhạc trời
Bé Nhi rón rén gần nơi
Hai Ông mê mẫn vui chơi đắc tình.
 
Bé nhẹ nhàng, làm thinh chẳng nói
Đặt mâm đào, tránh vội qua bên
Vòng tay ngồi đợi không phiền
Hai “Ông Tiên” cứ như ghiền, như say,
 
 Ông thứ hai nhìn ngay bên phải
Thấy có đào tự tại lấy ăn
Say “cờ” rồi lại say “văn”
Vừa ngâm, ca, vịnh, vừa tăng đường cờ.
 
Vừa thưởng thức“Đào”,“Thơ” sẵn có
Xong ván cờ thấy rõ bên ông
Thì ra cậu bé tốt lòng,
Đã dâng đào quí, còn trông điều gì ?
 
Hai vị Tiên tức thì hỏi chuyện
Bé “Bành Nhi” mở miệng trình thưa
Té ra hai vị đó là
“Nam Tào, Bắc Đẩu” nghe qua nể vì.
 
Chốn “Thiên Đình”,“Tiên” ghi sổ sách,
Ở cỏi trần phân tách nghiệp duyên
Phân kẻ ác, phân bậc hiền
Được ghi vào sổ “Thiên Đình” định phân./
 
Bé “Bành Nhi” mang thân mười tuổi
Trong kiếp người ở cõi ta bà,
Phước duyên cậu bé có là:
Nhơn dâng mâm táo, Tiên đà chứng cho.
 
 Hai “Tiên Ông” sánh so thật kỹ
Lại mở lòng hoan hỷ chứng minh
Ghi trong chữ “thập” (+) sổ trình
Một pháy đầu “thập” (+) trở thành chữ “thiên”.
 
Ôi ! “Bành Nhi” phúc hiền hiện kiếp
Sống trăm năm, liên tiếp ngàn năm
Thế là trong một việc làm
Thành tâm cung kính, nhẫn cam “tri hành”
 
Do sự tích lòng thành, tâm hảo,
Mà “Thánh Hiền” dạy bảo chúng ta
Các con muốn sống như là:
Danh ông “Bành Tổ” phúc đà sống lâu,
 
Việc “tri hành” không cầu không ước
Cứ “tri hành” sẽ được phúc duyên
Trải qua nhiều kiếp ta nguyền
Đạo quả sẽ đạt, tích truyền “Bành Nhi”.
 
Bé Bành Nhi phương phi tuấn tú
Dâng mâm đào, phúc đủ nghiệp tan
Gương nầy lộng ánh sử vàng,
Sống ngàn vạn kiếp vẻ vang muôn đời.
                   
San Lose, tối ngày 15-4-2018
Giác Lượng Tuệ Đàm Tử
 
 
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/10/2015(Xem: 15606)
Con xin đảnh lễ tâm đại bi. Con xin đảnh lễ chư đạo sư cao cả. Con xin đảnh lễ chư Bổn Tôn, Là chư vị ban nguồn cảm hứng về lòng tín tâm và sùng mộ.
05/10/2015(Xem: 9681)
Lại thêm thu nửa trở về, Nghĩ thân đất khách mà tê tái buồn. Nhớ về quê mẹ cội nguồn, Khi nhìn đôi cánh lá vàng nhẹ bay, Nhón chân dạo bước vườn ngoài, Nghiêng mình nhặt lá rụng rơi bên thềm. Sắp từng chiếc lá gọi tên, Thì thầm tên lá theo miền thế gian. Cảnh thu dễ gợi u buồn, Hỏi sao tâm để rộn ràng triền miên. Nhắn lòng ta ráng tịnh yên, Đem sao cho được chữ Thiền vào Thu !
03/10/2015(Xem: 19317)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
02/10/2015(Xem: 12332)
Bài thơ vô cùng súc động Do not stand at my grave and weep (Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ) của Mary Elizabeth Frye (1905-2004) đã được dịch ra không biết bao nhiều thứ tiếng và đã được đọc lên, phổ nhạc, trình bầy không biết bao nhiêu lần bởi các ca sỹ trứ danh. Mary Elizabeth Frye là một bà nội trợ người Mỹ, làm nghề bán hoa. Bà được cả thế giới biết tên vì một lý do độc nhất : bà là tác giả bài thơ « Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ », được viết vào năm 1932. Mary Elizabeth sinh ra ở Dayton, Ohio. Mới ba tuổi đã mồ côi. Sau đến ở Baltimore, Maryland. Năm 27 tuổi lập gia đình với Claud Frye, ông làm nghề buôn bán quần áo. Bài thơ làm bà sau này trở nên nổi tiếng được viết trên một chiếc túi mua sắm, lấy cảm hứng từ chuyện một cô gái trẻ tuổi, Margaret Schwarzkopf, ở với gia đình Frye, đã không thể đến thăm mẹ đang hấp hối ở Đức, vì cô gái là dân Do Thái. Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 12 dòng, không có chủ đề. Frye thấy bạn bè thích nên đã sao nhiều bản và lưu hành, nhưng chưa bao giờ
29/09/2015(Xem: 9025)
Dáng ngồi như núi như non Trăm năm sương gió vẫn còn uy nghiêm Trên cao sừng sững bóng hiền Mưa sa nắng chiếu địa thiên lưu tình Giữa đời lặng lặng thinh thinh Tỏa hương đạo hạnh hậu sinh hồi đầu Tử tôn gánh đội ân sâu Chuông ngân trưa tối, kinh cầu sớm khuya Bước chân hoằng độ đi, về Vườn ươm tỏa bóng bồ đề mát tươi Như non như núi không dời Đạo thành như ý, dáng ngồi thiên thu.
27/09/2015(Xem: 10333)
Nhìn lá rơi VÔ THƯỜNG luôn biến hoại Thân xác nầy cũng duyên hợp tử sanh Vũ trụ kia do tứ đại hợp thành Đâu còn mãi mà thâu gom chấp thủ !
23/09/2015(Xem: 8260)
Em quỳ rạng rỡ nét vui Như sen một đóa vừa ngoi khỏi bùn Chấp tay tâm sáng diệu thường Tàm quý hướng thiện giữa đường tôi qua... Em quỳ thanh khiết ngọc ngà Nguyện xin bất tịnh nhạt nhòa phàm thân Chấp tay tuệ giác bừng tâm Nẻo phù hoa ấy lặng câm tôi nh
23/09/2015(Xem: 9509)
Từ cao sơn dõi mắt nhìn Xuống non ra biển, một miền thùy dương Hồng trần mãi nhịp bi thương Lao xao tất bật rộn đường mưu sinh Lăng xăng đấu đá tranh giành Thất tình lục dục, trần căn dập dìu... Vui nhất thời chẳng bao nhiêu Khổ triền miên khổ vẫn nhiều khóc than Trời xanh, nắng đẹp, cát vàng Phố xinh, nhà lớn, cao sang sắc hình
09/09/2015(Xem: 8714)
Bé nằm ngủ trên cát Êm ả như nôi hồng Xoải tay nghe gió hát Sóng vỗ bờ mênh mông …
08/09/2015(Xem: 9310)
Aylan ơi! Sao em nằm úp mặt? Hãy ngước lên! Trông kìa, rạt rào muôn ngọn sóng của trùng khơi! Aylan ơi! Ta muốn trông thấy dấu chân em bé xíu, Xinh xinh trên bãi cát phẳng lì. Trông kìa, sao trông giống dấu chân ta thuở bé.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]