Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Viết cho thân quyến

11/02/201722:39(Xem: 8076)
Viết cho thân quyến

VIẾT CHO THÂN QUYẾN

 

 

 

DÂNG MẸ

Mẹ tôi vừa sáu tuổi

Bà ngoại đã qua đời

Để lại mình ông ngoại

Gà trống nuôi con côi.

 

Ông ngoại làm ngự y

Dưới triều vua Khải Định

Thường đem mẹ theo vào

Chơi trong cung An Định.

 

Thuở ấy Đức Từ Cung

Đoan Hy Hoàng Thái Hậu

Đang còn là cung nữ

Thường tắm rửa cho người.

 

Tuổi thơ mẹ thần tiên

Chạy nhảy khắp mọi miền

Mọi ngõ ngách cung khuyết

Mẹ coi như nhà riêng.

 

Đến thời phải đi học

Mẹ không chịu vào lớp

Ông ngoại phải mời thầy

Tại nhà riêng kèm học.

 

Mẹ làm biếng ham chơi

Bị thầy quất một roi

Mẹ bèn xin nghỉ học

Tiếp tục vào cung chơi.

 

Khi đến tuổi đôi mươi

Mẹ vâng lời ông tôi

Làm dâu phòng Tuy Lý

Nơi đẹp lứa xứng đôi.

 

Dòng hoàng phái vốn lười

Gặp được nàng dâu thảo

Nên tha hồ sai bảo

Lo mọi việc trong ngoài.

 

Từ đấy cuộc đời mẹ

Gặp rất nhiều gian nan

Nhưng nhờ lòng tin Phật

Mẹ giữ tâm kiên cường.

 

Mẹ suốt đời soi tâm

Theo “Minh tâm bửu giám”

Lời chư hiền thánh dạy

Mẹ ghi khắc vào tâm:

 

“Để vàng cho con cháu

Chưa chắc con cháu hưởng

Không bằng để âm đức,

Không mòn theo tháng năm”

 

“Thường thực hành phương tiện

Thời thời phát thiện tâm”

Mẹ vẫn thường dạy răn

Kẻ nào ưa sai vặt:

 

“Việc mình còn làm đượv

Đừng sai kẻ khác làm

Dù là kẻ dưới tay

Mình sai đâu chạy đó”.

 

Mẹ thường nhớ ơn thầy

Đã dạy cho con cái

Và ơn của y sĩ

Cứu bệnh lúc lâm nguy.

 

“Thọ ân bất khả vong

Thi ân bất cầu báo”

Mẹ vẫn thường dạy bảo

Cho con hằng nhớ ghi.

 

Mỗi khi mẹ hoài thai

Một đứa con trong bụng

Mẹ luôn khấn Phật trời

Nó sống ra con người.

 

Những đêm rằm trăng sáng

Mẹ nhìn trăng thầm khấn

Cho hài nhi sắp sinh

Được tâm lành trí sáng.

 

Hôm nay nhìn trăng tỏ

Mẹ như đang còn đó

Soi sáng mãi đời con

Trên đường về bến đỗ.

 

 

 

DÂNG CHA

“Thân tại hỏa binh, Tâm tại Phật

Phùng tăng khách địa, thuyết chân không”

 

Lời cha còn sang sảng

Vang vọng từ cõi không

Con nhớ mùa binh lữa

Cha ngồi đọc Kim Cương.

 

Giữa kinh hoàng bát nháo

Trong hầm trú đạn bom

Cha điềm nhiên tọa khán

Sách tây tàu văn chương.

 

Con nhỏ bệnh liệt giường

Mẹ săn sóc thuốc thang

Cha chỉ băn khoăn chuyện

Ở đâu mua hòm chon.

 

Một lần cha dạy học

Trong lớp có anh Ba

Điểm danh cha dõng dạc

“Bửu Đá” rồi “Bửu Đa”

 

Cuối cùng kêu “Bửu Đà”

Anh Ba đứng bật dậy

Cha ngỡ ngàng lạ lẫm

“Ủa té mày đó a!”.

 

 

 

ANH MINH

Anh cả, người con hiếu

Thay mẹ cha nuôi em

Đàn em nên người tốt

Đều nhớ ơn anh Minh.

 

 

 

CHỊ KHÁNH TRỢ

Nằm bệnh nhớ chị hiền

Thay mẹ nuôi dạy em

Lúc em tròn năm tuổi

Chị như một bà tiên.

 

Những khi em lầm lỗi

Không bao giờ la lối

Chị chỉ có cười xòa

Rồi dễ dàng bỏ qua.

 

Một hôm ngồi xe tay

Cùng chị ra Quảng Điền

Mang theo nhiều đồ đạc

Ở lại mấy tháng liền

 

Ngang qua một khu chợ

Chị bảo em ngồi đó

Hãy cẩn thận coi ngó

Chị vào chợ mua thêm.

 

Khi chị trở ra xe

Thấy mất vài món đồ

Đắt tiền nhất trong số

Chị hỏi chúng đâu rồi.

 

“Em thấy một bà nọ

Đến xe lấy đem đi

Bà đi vô trong chợ

Con đường chị đã đi”

 

Rất hiền hòa chị bảo

Em quá dại cách chi

Đất là kẻ ăn cắp

Sao không la lên đi.

 

Mỗi lần kể chuyện ấy

Chị vẫn cứ cười hoài

Chẳng bao giờ tiếc của

Hay trách cứ một lời.

 

Cháu Ti con của chị

Thuở nhỏ phá nhất đời

Đập vỡ nhiều chén bát

Ai nhắc chị chỉ cười.

 

“Con chị quý hơn chén

Đã bể rồi thì thôi

Ta lại sắm cái khác

Có đồ mới xài hoài”.

 

Nhà mình ở gần sông

Phía sau nhà có bến

Kẻ trộm thường ghé đến

Trộm đồ đạc xuống thuyền.

 

Mỗi khi mất đồ đạc

Áo quần trong tủ riêng

Chị thương cho kẻ trộm

Bán chẳng được mấy tiền.

 

“Đồ mình đã cũ quá

Trộm vơ vét càng hay

Ta mua lại cái khác

Áo quần thuê thợ may”.

 

Chị thường đem tiền lẻ

Để vào nơi vắng vẻ

Những chỗ chị đi qua

Mang vui cho lắm kẻ.

 

 

 

ANH ĐÍCH

Anh như bộ bách khoa

Cái gì anh cũng biết

Đọc nhiều sách văn triết

Còn chuyên sửa radio.

 

Anh giỏi nhất toán học

Ngành kinh tế cũng hay

Tốt nghiệp xong tiến sĩ

Ở Mỹ ráp xe hơi.

 

Học Phật cũng rất hay

Anh viết về Tứ đế

Trích dẫn chuyện thực tế

Trên thế giới ngày nay.

 

 

 

CHỊ PHÙNG MAI

Vào ngày chị ra đời

Hoa bạch mai nở rộ

Nên cha đặt cho chị

Cái tên là Phùng Mai.

 

Thuở nhỏ chị nhiều tài

Xem xi nê hát bội

Chị về nhà diễn lại

Nhớ tất cả các vai.

 

Chị kể chuyện đời xưa

Một ngàn đêm lẻ một

Em để dành quà bánh

Mướn chị kể cho nghe.

 

Hợp đồng đã chấm dứt

Mà chuyện vẫn còn dài

Chị cắt ngang không nói

Chờ để đến tối mai.

 

Em năn nỉ hết lời

Chị ơi rồi sao nữa

Kể tiếp em nghe đi

Em gãi dùm chỗ ngứa.

 

Đến độ tuổi hai mươi

Chị học ban tú tài

Trường trung học Khải Định

Thường vượt hẳn con trai

 

Trò cưng của nhiều thầy

Pháp, Anh, Toán, Lý, Hóa

Triết học và văn chương

Cả thầy Hán, cụ Lương.

 

Cụ tặng chị cuốn sách

Chú thích Chinh phụ ngâm

Do cụ vừa sáng tác

Cùng một bức tranh xuân

 

Sau đó cụ từ trần

Chị thương cảm vô ngần

Ghi những lời thống thiết

Trên bức họa mùa xuân.

 

Em xem thích quá chừng

Bao nhiêu tiền có được

Đưa ra năn nỉ mua

Chị cũng vui vẻ nhường.

 

Chị đọc sách Pháp Anh

Gặp bao nhiêu chữ khó

Đều bảo em học thuộc

Hỏi đâu trả lời đó.

 

Bạn của chị đến nhà

Khi cần tra tự điển

Chị bảo cứ hỏi nó

Nó sẽ trả lời liền.

 

Em trả lời vanh vách

Các chị phục quá chừng

Nên tuyên truyền với nhau

Em là tự điển sống.

 

(Kỳ thực chữ khó biết

Mà ít biết chữ thường

Cũng như chỉ biết đạo

Chuyện đời không am tường)

 

Em nhớ những mùa hè

Chị cùng em đạp xe

Đến thầy Phan Văn Dật

Sớm đi tối mịt về.

 

Thầy giảng dạy văn chương

Học trò giỏi các trường

Đều đến nghe thầy giảng

Một bậc thầy phi thường.

 

Nhà thầy đầy cả sách

Nhóm Tự Lực Văn Đoàn

Em say sưa ngồi đọc

Dưới bóng cây trong vườn.

 

Lớp tan trời vừa tối

Em đạp xe theo chị

Về qua cửa Thượng Tứ

Ve sầu kêu ve ve.

 

Trên cao chim ríu rít

Dưới hồ sen ngát hương

Hai chị em thích thú

Đạp xe dọc con đường.

 

 

 

ANH ĐỆ

Anh thật người bạn hiền

Cùng chị xây gia đình

Các con đều hiếu thảo

Một tổ ấm thần tiên.

 

Có tình với bà con

Tâm hồn rất độ lượng

Đức để lại cháu con

Nhiều đời sau còn hưởng.

 

 

 

CHÁU THIÊN TỨ

Thuở cháu vừa lên ba

Nguồn vui của mọi nhà

Đôi mi cong mắt sáng

Môi miệng như hồng hoa

 

Đầu tóc mềm sát da

Xoắn theo hình trôn ốc

Giống như tóc đức Phật

Trông dễ thương quá mà.

 

Cháu liếng thoắng ba hoa

Ưa ăn mứt gừng giút

Do bà ngoại làm ra

Cứ theo đòi ăn mãi.

 

Dì hỏi cháu xin gì?

Hãy nói đúng tên đi

Dì sẽ cho cái đó

Cháu ngập ngừng “Mưa gió”.

 

Dì dạy cháu chữ cái

Muốn cho cháu nhớ dai

Chữ X là bánh ít

Để cháu dễ thuộc bài.

 

Hôm sau chỉ chữ X

Dì hỏi đây chữ gì?

Cháu gãi đầu nghĩ mãi

Rồi nói: “bánh xu xê”!

 

Năm tròn hai mươi tuổi

Cháu tùng quân xa nhà

Ra tận vùng biên giới

Chẳng có tin tức về

 

Từ Sài Gòn xa xôi

Điện tín anh Tâm Ngoạn

Báo Ti chết mất xác

Thật sét đánh ngang trời

 

Mẹ cháu nhận hung tin

Vẫn nằm yên ca hát

Vui cười bảo với dì

“Con chị sẽ không chết”

 

Dì vẫn khóc hu hu

Tìm người thân quen biết

Đang ở trong quân ngũ

Hỏi tin cháu của dì.

 

May thay gặp anh Thẩm

Học trò dì trước kia

Nay đang làm đại úy

Dễ ra vào quân khu.

 

Thẩm lái xe đưa dì

Đến tận nơi căn cứ

Giữ hồ sơ binh sĩ

Còn, mất hay trốn đi.

 

Viên trưởng phòng xác nhận

Cả đại đội chết tất

Trong một trận hỏa tập

Không còn sót một ai.

 

Dì tò mò hỏi lại

Hỏa tập là cái gì

“Là tập trung hỏa lực

Diệt cả địch lẫn ta”

 

Nói xong người quân nhân

Rút từ ngăn kéo ra

Một xấp tiền dầy cộm

Đây tiền tử cho bà.

 

Dì ném vào anh ta

“Mạng cháu tôi vô giá

Không gì bù đắp được”

Rồi ôm mặt khóc òa.

 

Họ cũng rất cảm thông

Đưa dì r axe jeep

Trở về chùa Tường Vân

Cúng tuần cho cháu tiếp.

 

Vào tuần thất thứ hai

Dì đang khóc lai rai

Thì anh Thẩm lại đến

“Tứ còn sống Cô ơi”.

 

“Con đến thằng đại úy

Vốn là bạn của con

Để hỏi tin tức Tứ

Dưới quyền nó trông coi”.

 

“Tao đã báo tử trận

Toàn đại đội của nó

Thằng Tứ lù lù vào

Súng ba lô trên vai.

 

Thế là mày tốt số

Tao báo tử mày rồi

Vậy cho mày đào ngũ

Để quân trang lại thôi.

 

Thằng Tứ kể tao nghe

Hắn nấp chung một hầm

Cùng với ba thằng khác

Bom rớt xuống cái ầm

 

Ba thằng kia chết ngay

Xác văng tung lên trời

Rơi xuống trùm lên Tứ

Còn Tứ chẳng hề chi”.

 

Nghe lời anh Thẩm kể

Vừa thương lại vừa mừng

Dì bàn mưu tính kế

Đưa cháu vào Sài Gòn.

 

Chỉ còn cách giả trang

Làm một sa di nhỏ

Theo dì lên xe đò

Để rời xa xứ Huế.

 

Xe ngang dãy Trường Sơn

Cháu nhìn ra chỉ chỏ

Núi cao như thế đó

Con trèo dễ như bơn.

 

Thấy mặt cháu hân hoan

Như tù vừa thoát ngục

Dì hết sức cảm thương

Đời quân nhân gian nan.

 

Mỗi khi dì nhớ lại

Vẫn thương cháu vô ngần

Lại càng thêm cảm phục

Lòng hiếu thảo vô song.

 

 

 

MIMI

Mimi cháu Như Ngọc

Gái cưng của ba măn

Vỡ lòng cháu đi học

Chùa Kiều Đàm Huế thân.

 

Cô giáo là ni cô

Áo lam màu nữ tu

Ngày nào như ngày ấy

Cháu chê cô ở dơ.

 

Dì nhớ mãi cái ngày

Cháu nói câu đầu đời

Tại nhà sông Vỹ Dạ

“Kính lạy Phật Thích Ca”.

 

Xuất ngoại theo ba măn

Cháu viết thư kể rằng

Suốt ngày nói ngoại ngữ

Chiêm bao cũng tiếng Anh.

 

 

 

EMMY

Emmy có căn tu

Sống một đời tự do

Thanh tịnh và giải thoát

Lại có khiếu làm thơ.

 

 

 

KIKI

Nghe anh Ty điện thoại

Cháu gởi tiền cho dì

Dì hết sức cảm động

Tấm lòng cháu thảo hiền.

 

Cầu đức Phật từ bi

Gia hộ cho cháu dì

Gặp được người bạn tốt

Trên đường đời cùng đi.

 

Vì đức Phật có dạy

Nếu không gặp bạn lành

Thì thà sống một mình

Hơn sống chung kẻ xấu.

 

 

 

MIKY

Dì gặp cháu Miky

Hồi còn trên Bảo Lộc

Chỉ chừng năm, sáu tuổi

Mũm mĩm như búp bê.

 

Nay xem băng ghi hình

Cháu hoạt bát làm sao

Làm MC buổi tiệc

Quay phim và thuyết trình.

 

 

 

KITY

Kity làm bác sĩ

Duy nhất nối nghiệp nhà

Mong cháu được y đức

Như Biển Thước, Hoa Đà.

 

 

 

TIVI

Còn mình cháu Tivi

Ở nhà cùng cha mẹ

Chúc cháu luôn vui vẻ

Phụng dưỡng cha mẹ già.

 

 

 

CHỊ DUY THẠNH

Chị Duy Thạnh, anh Tương

Bà con quá dễ thương

Của một thời thơ ấu

Sống bên dòng sông Hương.

 

Một lần em cùng chị

Qua chuyến đò người đông

“Chị thích đò chìm thử

Em nghĩ có vui không?”

 

“Thích quá chừng chị nhỉ”

Em gật đầu đồng ý

“Mình tha hồ bơi lội

Giữa dòng nước sông trong”.

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/08/2018(Xem: 9689)
Kính bạch Thầy, xã hội VN và thế giới càng ngày càng nhiều não loạn, có lẽ ít người được an bình như những người con Phật, con xin gửi đến Trang Nhà quangduc.com một bài thơ để tự sách tấn mình và cũng để tán dương công đức những Phật tử cống hiến điều thiện lành, mang niềm vui đến cho người, làm vơi bớt khổ đau cho kiếp người như việc gởi tịnh tài phụ giúp chữa bệnh của Hòa Thượng Bangladesh Ajitananda Mahathera , trên trang nhà hay giúp đở qua các hoạt động từ thiện.
06/08/2018(Xem: 7425)
Khỉ kia nhiều vợ, lắm con Thuở xưa tụ họp ở luôn vùng này Thật là đông đúc vui vầy Khỉ cha cai trị cả bầy từ lâu
03/08/2018(Xem: 11787)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
03/08/2018(Xem: 9359)
Cuộc đời quá đổi chẳng lành Xe đi hỏi cưới trở thành đám tang Ôi ! Bao thảm cảnh tan hoang Tôi ngồi viết lại mà tan nát lòng Nghĩ về cuộc sống trăm năm Như làn tia chớp âm thầm thoáng ngang Nhìn xem cảnh tượng bẽ bàng Ai mà chẳng khỏi hai hành lệ rơi Nguyện cầu người chết thảnh thơi Nguyện cầu người sống đời đời thương nhau . Dallas Texas , 2-8-2018 Tánh Thiện
31/07/2018(Xem: 8317)
Gãy gánh tơ loan quạnh giấc đời Nghe từng giọt đắng chạm bờ môi Người đi chẳng luyến ân tình đoạn Kẻ ở đành cam đạo nghĩa rời Gối chiếc đìu hiu cơn ấm lạnh Canh trường lặng lẽ nỗi đầy vơi Cung thương dạo ấy hoà êm nhịp Điệu ái mùa sang trỗi nghẹn lời Mộng dệt bao phen vàng hoá đá Duyên gầy mấy lượt ngọc thành vôi Gom từng mạch cảm neo đầu sóng Nhặt bấy niềm đau buộc góc trời Để chữ tào khang hồng cánh thiệp Cho vần hạnh phúc thắm trùng khơi Thềm xưa vọng mãi câu nguyền ước Gãy gánh tơ loan quạnh giấc đời!
31/07/2018(Xem: 10213)
Truyền thống Phật Giáo Đại Thừa Quá Đường nghi thức, cúng trưa trong chùa An Cư Kiết Hạ đến mùa Đại Bàng lễ cúng xa xưa lưu truyền...
29/07/2018(Xem: 15252)
Con có duyên ra tận phi trường Los Angeles đón Ôn Thắng Hoan về chùa VN lúc Ôn đến Mỹ từ trại Tỵ Nạn vào năm 1983. Hình bóng Ôn hôm đó con không bao giờ quên được, vóc dáng gầy guộc, giản dị , chân phương của Ôn đã gieo vào lòng con niềm thương kính . Con kính cảm tạ Thầy đã gởi video về cuộc đời hoằng pháp của Ôn . Hôm nay con viết lên bài thơ này để kính dâng lên Ôn với tất cả tấm lòng mà con đã có duyên lành gần gủi Ôn lúc con còn là một học tăng ở Chùa Việt Nam, Los Angeles. Thắng Hoan Trưởng Lão ngát hương thiền Nhập đạo đồng chơn đủ phước duyên Hoằng pháp độ sanh không mỏi mệt Lợi lạc chúng sanh khắp mọi miền. Phật sự không màng công khó nhọc Đời Ngài trải rộng chẳng chùa riêng Một mình một bóng trong cô tịch Toả sáng vườn hoa Pháp diệu huyền . Dallas Texas , 28-7-2018 Tánh Thiện
29/07/2018(Xem: 6980)
Cuộc sống vẫn có lúc nầy lúc khác Bao thăng trầm vướng bận giữa thế gian Như lòng ta không an định vững vàng Dễ cuốn hút theo dòng đời chảy xiết . Biết bao kẻ tham cầu mê học thuyết Người thượng căn xem như gió cuốn đi Duyên cho ai học Phật quyết hành trì Chẳng chạy đuổi (ngũ dục) mà bỏ quên Chánh Pháp . Lời Phật dạy đừng gây bao nghiệp ác Làm việc lành khiêm tốn với tha nhân Cung dưỡng Thầy hiếu kính nghĩa song thân
28/07/2018(Xem: 7427)
Mùa An Cư năm nay cúng cháo, Thầy phân công chỉ bảo rõ rành (sadi) Viên Từ, Minh Hạnh đồng hành Cúng cháo thí thực, lo nhanh buổi chiều. Lòng thắc mắc của nhiều Phật tử. Cúng cơm đi, sao cứ cháo hoài Dọn lên món khác đổi thay Thức ăn sẵn có, cơm chay đủ đầy.. Lời giải thích sau đây cho biết Các lễ nghi đặc biệt từ xưa Nghi thức Phật Giáo Đại Thừa Cứu giúp quỷ đói, bị đưa đọa đày
28/07/2018(Xem: 8848)
NGẮM cảnh sắc cõi không kỳ diệu TRĂNG lung linh soi chiếu đêm trường LĂNG GIÀ tròn sáng như gương Soi trong bóng tối, dẫn đường chúng sanh.... Núi Lăng Già non xanh biển biếc Đảo xa xôi Phật thuyết giảng kinh Tên núi xưa đặt cho kinh Lăng Già nay gọi - Bộ Kinh Đại Thừa. Chốn nơi đây năm xưa Phật dạy Tỉnh giác ngộ nội tại từng phần Giúp cho Hành Giả đạt tâm Rõ Như Lai tạng vốn hằng chúng sanh. Kinh giáo lý trở thành cốt tủy Của Thiền Tông và Duy Thức Tông Bồ Đề Sơ Tổ khai thông
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]