Lang thang mây ghé đỉnh non
Hỏi thăm Đá cỗi đã mòn bao nhiêu
Cô đơn mưa nắng sớm chiều
Khi nào chán ngán thì theo Mây cùng.
Đá cười cây cỏ nghiêng rung
Trôi lăn vô định thì đừng lang thang
Mưa thơm, gió mát, nắng vàng
An nhiên chóp núi, hiên ngang lưng trời
Không mỏi mệt, khỏi nghỉ ngơi
Hằng ngày vẫn vậy không dời không nghiêng
Đi chi cho rước khổ phiền
Ngàn năm một cõi thiên nhiên an lành.
A Nan Đà, ta biết,
Là một trong mười người
Được gọi đại đệ tử
Khi Đức Phật sinh thời.
Ông xuất thân quí tộc
Con vua A Mi Đà,
Tức ông là cháu ruột
Của Đức Phật Thích Ca.
Khi Ngài về La Vệ,
Ông vừa tròn hai mươi
Bố luôn luôn là một người
Dễ thương, tử tế đồng thời giỏi thay
Bố thường đoán biết ra ngay
Trong đầu ta nghĩ loay hoay những gì.
Bố là người biết lắng nghe
Đôi khi góp ý rất chi tận tình
Và luôn bảo vệ cho mình.
Bố là người bạn chân thành nhất thôi.
Khi ta thắng lợi trong đời
Bố thường kiêu hãnh thốt lời ngợi ca
Khi ta thất bại xót xa
Bố thường kiên nhẫn giúp ta tới cùng
Không hề có lúc nản lòng.
Con yêu Cha rất nồng nàn
Yêu vì những thứ Cha làm con vui.
Khi con cảm thấy buồn đời
Cha làm con nở nụ cười được ngay.
Khi con làm kẹt nút dây
Cha luôn gỡ nút, khéo tay vô cùng.
Có nhân thì có quả.
Đó là luật của Trời.
Cũng là luật của Phật,
Ứng nghiệm với mọi người
Một lần, khi giảng pháp,
Với tôn giả, sư thầy,
Phật Thích Ca đã kể
Một câu chuyện thế này.
Có một con bò nọ,
Nhân khi vắng người chăn,
Đã xuống ăn ruộng lúa
Của một người nông dân.
Đầu tiên học “nhận lỗi mình”
Chúng sinh thường chẳng có thành thật đâu
Cho rằng mình đúng trước sau
Lỗi lầm nếu có đổ mau cho người
Khi ta chối lỗi, than ôi!
Chính là lỗi lớn nhất đời của ta!
Một người hỏi Đức Phật:
“Bạch Như Lai từ bi,
Tôi muốn có hạnh phúc.
Vậy thì phải làm gì?”
Đức Phật đáp: “Trước hết
Anh phải bỏ chữ “Tôi”.
Tiếp đến bỏ chữ “Muốn”.
Chỉ hai chữ đó thôi.
Vì “Tôi” là ích kỷ.
“Muốn” là mong, là tham.
Bỏ nó, anh hạnh phúc,
Trong ý nghĩ, việc làm.”
Thiền sư Vô Căn trong một lần nhập định 3 ngày, thần thức của ông xuất khỏi thân thể. Các đệ tử của ông
tưởng lầm ông đã tịch diệt nên mang nhục thân ông đi hỏa táng. Sau 3 ngày thần thức của ông trở về nhưng
không tìm được nhục thân. Tìm không được nhục thân nên thần thức thiền sư Vô Căn quanh quẩn nơi căn phòng
ông ở, liên tiếp than thở tìm kiếm nhục thân của ông nhiều ngày đêm thống thiết: Tôi ơi, Tôi ở đâu?… Tôi ơi, Tôi ở đâu?…
Điều này làm cho các đệ tử của ông rất ư kinh sợ. Một người bạn của thiền sư Vô Căn tên thiền sư Diệu Không nghe tin liền đến ngay thiền viện bảo các đệ tử của thiền sư Vô Căn là đêm đó thiền sư sẽ nghĩ lại trong phòng của thiền sư Vô Căn rồi bảo các đệ tử hãy mang cho ông một thau nước, một bồn lửa, một bồn bùn đất.Đêm đến, thiền sư thiền sư Vô Căn lại nghe tiếng than thống thiết của thần thức thiền sư Vô Căn:
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.