Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài nét chấm phá về những bài thơ của HT Trí Thủ

01/11/201420:51(Xem: 18869)
Vài nét chấm phá về những bài thơ của HT Trí Thủ


HT_Tri_Thu_2
MỘT VÀI NÉT CHẤM PHÁ
 

QUA NHỮNG BÀI THƠ CỦA HT. THÍCH TRÍ THỦ 

Đại Lãn







Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Hòa Thượng thì phần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịch thuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, còn ít hơn nữa đối với cả một đời Ngài đã bỏ ra phục vụ đạo pháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhau nhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài. Tuy chúng nói lên rất ít ỏi, nhưng không vì thế mà chúng không mang lại cho chúng ta một cái nhìn chính xác và rõ ràng hơn về cuộc đời của Ngài và, cũng từ đây chúng ta mới thấy rõ được chân dung của một bậc Thầy vĩ đại qua chí nguyện kiên cường của Ngài trong việc “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.” một cách trọn vẹn như trong bài :

Đốt nén tâm hương trước Phật đài 
Phổ Hiền hạnh cả nguyện nào sai 
Hiện thân cát bụi vào muôn nẻo 
Cứu bệnh trầm kha khắp mọi nhà.” 
(tụng Kinh Hoa Nghiêm cảm tác)

Chính hạnh nguyện của Ngài Phổ Hiền Bồ-tát đã chắp cánh cho Ngài bay lên cao hơn và, hình như Ngài đã thật sự khế hợp với pháp môn này. Qua bốn câu thơ như là vừa tán dương hạnh cả của Ngài Phổ Hiền và cũng như là vừa lập nguyện cho chính mình; những tương ưng ở đây thật tuyệt vời cho khắp không gian vô cùng và thời gian vô tận, nó nói lên chí nguyện bền chắc lâu dài qua hai đức trí tuệ và từ bi được thể hiện từ hạnh nguyện. Nhưng trước khi Ngài muốn thể hiện hạnh nguyện này Ngài đã phải trải qua những năm tháng lau sạch bình bát trong chức năng nối dòng nghiệp Thánh không biết là bao lâu, Ngài đã thật sự không còn nhớ nữa:

Tào khê nước chảy về đông 
Bình bát nối dõi lâu không nhớ ngày 
Trăng thiền nào có khác xưa 
Viên Thành ấn chứng đã dày công tu.” 
(Nước Tào Khê)

Những huân tập thiền đã đưa đến sự bùng vỡ trong tu tập “Trăng thiền nào có khác xưa” đó chính là cái nhân để từ đó Ôn cất cánh bay xa, đó cũng chính là những nổ lực ban đầu trong việc thượng cầu Phật đạo của Ngài và, chúng luôn được thể hiện qua cuộc sống sau này được thể hiện từ cuộc sống trong hạ hóa chúng sanh không bao giờ ngừng nghỉ qua việc vừa giữ tâm mình luôn luôn trong sáng cùng đem trí tuệ đó sáng soi cho mọi người:

Nội hạc chưa ngừng sân Lão thọ 
Ngàn mây còn vướng ngõ Hoàng Mai 
Non xanh, pháp nhãn hoa Linh Thứu 
Nước biếc, thiền tâm bóng Thiện Tài.” 
(cảm tác xuân Canh Tuất)

Trước hết, trong hiện tại tấm lòng của Ngài đang được những hình ảnh và các biểu tượng như nội hạc, ngàn mây, non xanh, nước biếc và cây sân Lão, ngõ Hoàng Mai, hoa Linh Thứu, bóng Thiện Tài đang nuôi dưỡng và làm lớn mạnh hạt giống an lành giải thoát trong cuộc sống của chính Ngài, đó chính là cửa ngõ bước vào Không tâm của ánh sáng trăng thiền nào khác xa xưa và, sau nữa là ánh sáng đó Ngài vẫn giữ mãi nó không bao giờ đánh mất:

Đốt nén hương nguyền thề sám hối 
Trước sau giữ trọn chữ Không Tâm.” 
(Xuân Quý Mão cảm tác)

Trong phương tiện tương đối để chúng ta bước vào cửa Không của không cửa nhà Tổ thì đương nhiên những hình ảnh và những biểu tượng đó cần phải có để chúng ta lấy làm phương tiện làm nhân cho những bước đi giải thoát kế tiếp, do đó chúng ta rất cần có những phương tiện đó. Chính vì chúng là những phương tiện tạm thời cần thiết, nên chúng chính là những nhân tố không thể không có cho chúng ta trong lúc thực hiện hạnh nguyện thượng cầu hạ hóa; nếu không có chúng chúng ta sẽ bị kẹt vào trong thiên chấp của sắc không và, luôn luôn bị chúng trói buộc vào tà kiến đảo điên thị phi khó thoát ra được, như vậy chúng ta cầm chắc sẽ bị trôi lăn mãi trong đường sanh tử luân hồi sáu cõi. Ở đây nếu ai ngộ ra được cảnh giới sắc không không tịch, không tự tính này thì sẽ nhận ra được Bát-nhã tính không trong suốt của không tâm và cũng sẽ nhận ra được việc làm của Ôn đối với đất nước và dân tộc này:

Tâm sự sắc không ai có biết? 
Kìa gương Bát-nhã vốn trong ngời.” 
(Xuân Mậu Thân)

Ở đây, từ không tâm của phương tiện đến Không Tâm của cứu cánh, nó cũng giống như sự khác biệt giữa chữ Phật của mê và chữ Phật của ngộ vậy, có nghĩa là khi mê gọi là chúng sanh khi ngộ gọi là Phật thế thôi. Do đó cảnh giới của sắc không chúng ta cần phải thông suốt, nếu không thông suốt ắt sẽ bị chúng làm chướng ngại trong ý niệm “có-không” và, như vậy không đời nào chúng ta vượt qua khỏi sinh tử luân hồi được. Ở đây Hòa Thượng sau khi chính tự thân Ôn đã tỏ ngộ được thể cảnh giới sắc không cùng những diệu dụng của nó như thế nào rồi, thì sau đó Ngài liền nghĩ ngay đến sứ mạng hạ hóa chúng sinh của minh đói với tha nhân như thế nào?

Sứ mạng làm tròn thân đệ tử 
Chiếu đèn diệu huệ giữa đêm sâu.” 
(cảm niệm Phật thành đạo)

Sứ mạng của các hàng đệ từ đức Đạo sư là trên tìm mọi cách để chứng đạt được đạo vô thượng Bồ-đề, dưới hoàn thành sứ mệnh hóa độ mọi loài chúng sanh để họ được như mình; đây là một sứ mạng cao cả cho chính tự thân và tha nhân. Khi hai sứ mệnh này hoàn thành trọn vẹn thì lúc đó chúng ta mới hoàn toàn đạt được an vui giải thoát vĩnh viễn. Đó cũng chính là tâm sự gần xa của Ôn khi nhìn hòn non bộ bản đồ Việt Nam mà chạnh nghĩ đến hiện tình đất nước dân tộc và đạo pháp:

Dù cho Nam Bắc đôi đường, 
Đốt lò hương nguyện bốn phương một nhà; 
Sớm hôm hướng nẻo Phật đà, 
“Sắc, Không” tâm sự đường xa nỗi gần.” 
(Cảm đề Non bộ bản đồ Việt Nam)

Tâm sự đường xa nỗi gần của Ôn đối với tha nhân phát xuất từ lòng từ bi được phát khởi từ trí tuệ không tâm Bát-nhã mà Ngài đã tìm lại được nơi chính mình qua diệu huệ của hạnh nguyện thượng cầu hạ hóa theo gương Bồ-tát Phổ Hiền. Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợi và lợi tha Ôn vẫn bước đi không một chút do dự, miễn sao bước đi của mình vừa lợi mình lợi cho người thì Ngài không ngại:

Dù phải chịu muôn ngàn gian khổ 
Con hết lòng vì đạo hy sinh 
Nương từ quang tìm đến bảo thành 
Đặng tự giác giác tha viên mãn.” 
(Quỳ trước điện)

Con đường đi đến tự giác giác tha và để hoàn thành giác hành viên mãn thì, ngoài vấn đề hy sinh chịu gian khó qua sự thể hiện đức tính từ bi còn phải có sự quyết tâm và nổ lực hết mình trong tinh tấn mới có thể hoàn thành được hạnh nguyện của chúng ta được, nếu không thì sẽ bỏ dở giữa đường, đó chính là con đường đưa đến giác hành viên mãn:

Hướng về muôn đức từ bi 
Đường lên giác ngạn quyết đi tận cùng.” 
(hướng về)

Và Ôn luôn luôn nuôi dưỡng hạnh nguyện này qua những sách tấn chính mình thường ngày trong cuộc sống. Những chất liệu nuôi dưỡng cho chính bản tâm Ngài mang chất liệu từ đức tin từ bi kiên cố vào chân lý mang đậm nét trí tuệ, cộng thêm những nổ lực tinh tiến tự nguyện của tự thân dẫn đến mọi sự an lạc cho chính Ngài trong tu tập:

Một lòng kính lạy Phật đả 
Ngàn đời con nguyện ở nhà Như lai 
Con hằng bận áo Như lai 
Con ngồi pháp tọa Như lai muôn đời.” 
(tụng kinh Pháp Hoa cảm tác)

Trí tuệ và từ bi là đôi cánh được nối thêm để Hòa thượng vượt qua biển khổ sinh tử và hoàn thành sự nghiệp giải thoát cho chính Ngài, vì vậy chúng luôn luôn hiện hữu trong cuộc sống của chính Ngài trong việc thực hành hạnh nguyện Phổ Hiền của minh. Và cũng từ việc thực hiện hạnh nguyện của mình đối với tự thân và tha nhân qua chí nguyện thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh trong chức năng có được của mình đối với dân tộc và đạo pháp mà Ngài đã chịu không biết bao nhiêu là cay đắng khó khăn thậm chí đến tai tiếng nữa; nhưng Ngài với tâm không của mình vì tự lợi và lợi tha vì dân tộc và đạo pháp mà Ngài cam tâm gánh chịu mọi khổ đau và tai tiếng đó:

Cay đắng nếm dư đầu chót lưỡi 
Khen chê nghe đủ giữa vành tai.” 
(Xuân Mậu Thân)

Sự chấp nhận của Ngài qua những phản ứng chung quanh đối với Ngài không hẳn chỉ là những tiếng bất lợi mà còn có những lời khen ngợi khuyến khích nữa; nhưng giờ đây những khen chê, buồn vui đối với ngài không còn là vấn đề để đặt ra và xét lại trong phân biệt nữa, mà là một chấp nhận với tâm không, do đó Ngài luôn lưôn dùng nụ cười thay thế cho những phản ứng của Ngài về những dư luận chung quanh:

“Sáu bảy xuân thu giữa cuộc đới 
Buồn vui mừng giận khéo trêu ngươi 
Thân này đã hứa cùng non nước 
Vinh nhục khen chê chỉ mỉm cười.” 
(Cảm tác sinh nhật 67 tuổi)

Nụ cưới của không tâm luôn thể hiện, chỉ có mình biết mình mà thôi, dù thế nhân có hiểu mình hay không hiểu mình cũng mặc, vì chính Ngài mới biết được việc làm của mình và với không tâm thì sẽ không tạo ra tác nhân, mà đã không tạo ra tác nhân thì làm gì có thọ quả thế thôi. Với Không tâm đối với tự thân và đối với mọi người, thật sự giờ này có lẽ không gì có thể trói buộc được bước đi của Ngài, Ngài sống với duyên đến, theo với duyên đi, cho dù là bất cứ hoàn cảnh nào đi nữa; thì việc làm đúng nghĩa tùy duyên nên trở thành tự tại.

Xuân về Mậu Ngọ tuổi lai hy 
Chẳng dám khoe chi chẳng muốn gì 
Bảo ở thì ừ hoan hỷ ở 
Kêu đi âu cứ tự nhiên đi 
Cảnh khô lá úa mai nhưng nụ 
Mây cuốn sương tan đá vẫn lỳ 
Vô tận không thời vô tân ý 
Thị chưa từng bận ngại gì phi.”

Đó chính là cách sống đúng của những người con Phật theo đúng nghĩa chỉ dạy của bậc Đạo sư trong sự nghiệp hoằng pháp độ sinh của Ngài. Lúc này mọi chướng ngại nhau trong cuộc sống sẽ được dung thông tất cả trong thời-không vô tận. Ở đây không còn bất cứ một ý niệm nào sai biệt chống trái nhau hết cho dù đó là thị hay là phi trên mặt hiện tượng tương đối của sự tướng và, thật sự đây chính là cảnh giới giải thoát hiện tiền của những người con học Phật thực hành theo Phật.

Qua những vần thơ chúng tôi trích ra từ tập I trong ba tập của Trí Thủ toàn tập, cho chúng ta một cái nhìn đúng hơn về Ngài và, cho chúng ta thấy được cái vĩ đại của Ngài trong chí nguyện thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh, cùng sự thể hiện nếp sông tự tại qua cuộc sống. Chúng ta những kẻ hậu bối đi sau chỉ ghi lại những gì có được một cách ít ỏi qua những bài thơ của Ngài để lại, đối với toàn bộ những gì Ngài đã cống hiến cho Phật Giáo Việt Nam và dân tộc này qua sự nghiệp giáo dục và văn hóa của Ngài như lược sử và những cống hiến được ghi lại qua ba tập Trí Thủ Toàn tập đã ghi lại để chúng ta có thể nhận thức đúng hơn về Ngài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/08/2018(Xem: 11241)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
03/08/2018(Xem: 8862)
Cuộc đời quá đổi chẳng lành Xe đi hỏi cưới trở thành đám tang Ôi ! Bao thảm cảnh tan hoang Tôi ngồi viết lại mà tan nát lòng Nghĩ về cuộc sống trăm năm Như làn tia chớp âm thầm thoáng ngang Nhìn xem cảnh tượng bẽ bàng Ai mà chẳng khỏi hai hành lệ rơi Nguyện cầu người chết thảnh thơi Nguyện cầu người sống đời đời thương nhau . Dallas Texas , 2-8-2018 Tánh Thiện
31/07/2018(Xem: 7869)
Gãy gánh tơ loan quạnh giấc đời Nghe từng giọt đắng chạm bờ môi Người đi chẳng luyến ân tình đoạn Kẻ ở đành cam đạo nghĩa rời Gối chiếc đìu hiu cơn ấm lạnh Canh trường lặng lẽ nỗi đầy vơi Cung thương dạo ấy hoà êm nhịp Điệu ái mùa sang trỗi nghẹn lời Mộng dệt bao phen vàng hoá đá Duyên gầy mấy lượt ngọc thành vôi Gom từng mạch cảm neo đầu sóng Nhặt bấy niềm đau buộc góc trời Để chữ tào khang hồng cánh thiệp Cho vần hạnh phúc thắm trùng khơi Thềm xưa vọng mãi câu nguyền ước Gãy gánh tơ loan quạnh giấc đời!
31/07/2018(Xem: 9765)
Truyền thống Phật Giáo Đại Thừa Quá Đường nghi thức, cúng trưa trong chùa An Cư Kiết Hạ đến mùa Đại Bàng lễ cúng xa xưa lưu truyền...
29/07/2018(Xem: 14807)
Con có duyên ra tận phi trường Los Angeles đón Ôn Thắng Hoan về chùa VN lúc Ôn đến Mỹ từ trại Tỵ Nạn vào năm 1983. Hình bóng Ôn hôm đó con không bao giờ quên được, vóc dáng gầy guộc, giản dị , chân phương của Ôn đã gieo vào lòng con niềm thương kính . Con kính cảm tạ Thầy đã gởi video về cuộc đời hoằng pháp của Ôn . Hôm nay con viết lên bài thơ này để kính dâng lên Ôn với tất cả tấm lòng mà con đã có duyên lành gần gủi Ôn lúc con còn là một học tăng ở Chùa Việt Nam, Los Angeles. Thắng Hoan Trưởng Lão ngát hương thiền Nhập đạo đồng chơn đủ phước duyên Hoằng pháp độ sanh không mỏi mệt Lợi lạc chúng sanh khắp mọi miền. Phật sự không màng công khó nhọc Đời Ngài trải rộng chẳng chùa riêng Một mình một bóng trong cô tịch Toả sáng vườn hoa Pháp diệu huyền . Dallas Texas , 28-7-2018 Tánh Thiện
29/07/2018(Xem: 6515)
Cuộc sống vẫn có lúc nầy lúc khác Bao thăng trầm vướng bận giữa thế gian Như lòng ta không an định vững vàng Dễ cuốn hút theo dòng đời chảy xiết . Biết bao kẻ tham cầu mê học thuyết Người thượng căn xem như gió cuốn đi Duyên cho ai học Phật quyết hành trì Chẳng chạy đuổi (ngũ dục) mà bỏ quên Chánh Pháp . Lời Phật dạy đừng gây bao nghiệp ác Làm việc lành khiêm tốn với tha nhân Cung dưỡng Thầy hiếu kính nghĩa song thân
28/07/2018(Xem: 7062)
Mùa An Cư năm nay cúng cháo, Thầy phân công chỉ bảo rõ rành (sadi) Viên Từ, Minh Hạnh đồng hành Cúng cháo thí thực, lo nhanh buổi chiều. Lòng thắc mắc của nhiều Phật tử. Cúng cơm đi, sao cứ cháo hoài Dọn lên món khác đổi thay Thức ăn sẵn có, cơm chay đủ đầy.. Lời giải thích sau đây cho biết Các lễ nghi đặc biệt từ xưa Nghi thức Phật Giáo Đại Thừa Cứu giúp quỷ đói, bị đưa đọa đày
28/07/2018(Xem: 8483)
NGẮM cảnh sắc cõi không kỳ diệu TRĂNG lung linh soi chiếu đêm trường LĂNG GIÀ tròn sáng như gương Soi trong bóng tối, dẫn đường chúng sanh.... Núi Lăng Già non xanh biển biếc Đảo xa xôi Phật thuyết giảng kinh Tên núi xưa đặt cho kinh Lăng Già nay gọi - Bộ Kinh Đại Thừa. Chốn nơi đây năm xưa Phật dạy Tỉnh giác ngộ nội tại từng phần Giúp cho Hành Giả đạt tâm Rõ Như Lai tạng vốn hằng chúng sanh. Kinh giáo lý trở thành cốt tủy Của Thiền Tông và Duy Thức Tông Bồ Đề Sơ Tổ khai thông
27/07/2018(Xem: 10300)
NGỒI tĩnh tọa ngắm dòng nước chảy THUYỀN từ bi gác mái xuôi dòng BÁT NHÃ rời bến sang sông, Hướng bờ Chánh Giác, thoát vòng tử sinh.
25/07/2018(Xem: 10460)
Phố vắng đêm về sương lạnh rơi Nhặt khoan âm hưởng tiếng rao mời Tìm cơm chẳng quản chân cày đất Kiếm áo nào e mặt bán trời
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]