Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

38. Khúc Gỗ Trôi Sông

15/03/201408:31(Xem: 31733)
38. Khúc Gỗ Trôi Sông
blank

Khúc Gỗ Trôi Sông


Chợt tôn giả Moggallāna nói:

- Hôm ấy, tại con sông Gaṇgā, thuộc địa phận nước Kosambī, vào một mùa nước nổi, dòng sông đang trôi chảy cuồn cuộn, đức Đạo Sư cũng đã có thuyết một thời pháp vi diệu...

Đức Phật mỉm cười hỏi:

- Là gì vậy Moggallāna?

- Thưa, là “Khúc gỗ trôi sông” hay lắm, bạch đức Tôn Sư!

- Thế thì ông hãy giảng nói lại cho đại chúng cùng nghe.

Thế là tôn giả Moggallāna thuyết lại như sau:

- Thưa đại chúng tỳ-khưu! Hôm ấy, sau mùa an cư, đức Thế Tôn cùng đại chúng tỳ-khưu đang du hành từ Kosambī về Bāraṇāsī vào mùa nước sông đang còn chảy xiết. Dòng sông lúc bấy giờ đang còn hung hăng như một con rồng dữ cuốn trôi trên mình nó nào bùn đất, nào rác rều, nào cây tươi, cây mục, nào gỗ to, gỗ nhỏ về biển cả. Con sông ầm ào cuồn cuộn chảy, gặp những chướng ngại như cầu cống, triền núi, bờ đá, chân các cổ thành, vũng xoáy qua vực; rồi còn cư dân địa phương mạo hiểm trên những chiếc thuyền con, bè chuối lao ra giữa dòng vớt củi nữa, đã làm phát sanh trong tâm trí đức Thế Tôn rất nhiều ví dụ, rất nhiều ẩn dụ về pháp. Nên lúc dừng chân tại một triền đất cao, thoáng đãng, đức Đạo Sư của chúng ta đã cảm hứng, tức cảnh thuyết ngay một bài pháp, như sau:

- Này các thầy tỳ-khưu! Hãy nhìn khúc gỗ đang trôi trên sông kia kìa? Nó đang thuận dòng vun vút lao đi nhưng không biết nó có về được biển Đông không đấy?

Một số đông tỳ-khưu đáp:

- Khó có thể về đến biển Đông được, bạch đức Tôn Sư!

- Tại sao?

Rồi từng người đáp:

- Thưa, khúc gỗ ấy có thể bị tấp bờ bên này, bị tấp bờ bên kia...

- Bị người ta vớt...

- Có một số bị mắc cạn trên cồn đất nổi...

- Có thứ chỉ còn trơ lõi rắn thì bị chìm...

- Có thứ thị bị mục ruỗng...

- Có thứ bị vũng nước xoáy quăng đập cho rách nát, tả tơi...

Lắng nghe chư tỳ-khưu đưa ra được những luận cứ xác thực, đức Phật mỉm nụ trăng vàng, đầm ấm và dịu dàng nói:

- Này các thầy tỳ-khưu! Là tỳ-khưu trong giáo pháp của Như Lai, thực hành con đường phạm hạnh thì cũng phải như khúc gỗ kia là không được tấp vào bờ này, không được tấp vào bờ kia, không chìm giữa dòng, không mắc cạn trên cồn đất nổi, không bị người đời nhặt lấy, không bị phi nhân nhặt lấy, không bị lọt vào vùng nước xoáy, không bị mục nát bên trong thì sẽ xu hướng về Niết-bàn, thông thuận về Niết-bàn.

Khi các vị tỳ-khưu thắc mắc: Bờ này, bờ kia là gì? Tại sao chìm giữa dòng? Thế nào là mắc cạn trên cồn đất nổi? Người và phi nhơn nhặt lấy là sao? Không bị lọt vào vùng nước xoáy, bị chìm hoặc mục ruỗng bên trong là sao nữa?

Đức Phật lại tiếp tục thời pháp:

- Này các thầy tỳ-khưu! Bị tấp vào bờ này chính là bị dính, bị đắm, bị nô lệ bởi mắt, tai, mũi, lưỡi và thân.

Bị tấp vào bờ kia là bị dính, bị đắm, bị nô lệ bởi sắc, thanh, hương, vị và xúc.

Bị người đời nhặt lấy là do vị tỳ-khưu ấy sống quá liên hệ, quá gần gũi với giới cư sĩ tại gia, với người đời; họ thường làm những việc của thế gian, lạc khổ, thương ghét, buồn vui gì cũng như là người của thế gian; bị dính mắc, trói buộc suốt đời vào những việc không phải là của mình, của một vị tỳ-khưu xuất gia phạm hạnh.

Bị phi nhơn nhặt lấy là vị tỳ-khưu dầu xuất gia phạm hạnh nhưng không xu hướng đến chánh trí, giác ngộ, giải thoát, Niết-bàn mà chỉ thích mơ ước, tầm cầu các cảnh giới thích khoái của chư thiên.

Bị mắc cạn trên cồn đất nổi là những vị tỳ-khưu kiêu ngạo, hống hách, ngã mạn, cậy quyền, ỷ thế mình học giỏi, đa văn hoặc niên cao, lạp lớn mà không coi ai ra gì! Giống như những kệ ngôn sau đây:

“- Người ngu cuồng vọng tiếng tăm
Muốn ngồi trên trước chư tăng thánh, phàm
Quyền uy tu viện cao sang!
Muốn người đưa đón, kiệu vàng, lọng hoa!”([1])

Hoặc:

“- Người ngu ‘tự ngã’ phô trương
Cướp công đồng đạo nêu gương mình làm!
Ưu sai, ưa lệnh rắp hàng
Mạn cuồng tăng thượng, ái tham lũ dòng!”(2)

Bị mục ruỗng bên trong là ám chỉ những vị tỳ-khưu có nội tâm xấu xa, ô uế, hủ bại, không có giới, hành ác hạnh, đầy dẫy nhưng ham muốn bất chánh, tà mạng, hèn hạ...

Khi đức Tôn Sư vừa chấm dứt thời pháp thì có một chú chăn bò bạo gan từ ngoài bước vào, quỳ năm vóc sát đất rồi cất lên tiếng rống của chú sư tử con:

- Bạch đức Thế Tôn! Con đã chăm chú lắng nghe rất kỹ thời pháp! Đã đặt trọn vẹn tâm, trí vào thời pháp. Con thấm thía, xúc động với thời pháp vi diệu ấy. Cho nên, con sẽ không bị tấp vào bờ này, sẽ không bị tấp vào bờ kia, sẽ không bị chìm giữa dòng, sẽ không bị mắc cạn trên cồn đất nổi, sẽ không bị người đời nhặt lấy, sẽ không bị phi nhân nhặt lấy, sẽ không bị lọt vào vùng nước xoáy, sẽ không bị mục nát bên trong... Vậy thì hãy cho con xuất gia, con sẽ thực hành phạm hạnh, con sẽ xu hướng về Niết-bàn, thông thuận về Niết-bàn, bạch đức Thế Tôn!

Quán nhìn căn cơ của chú chăn bò, có vẻ thấy là khả thủ, đức Phật gật đầu:

- Được rồi, này Nanda! Nhưng mà con hãy về trả bò cho chủ trước đã.

- Không cần phải làm thế đâu, đàn bò này sẽ tự động tìm về chủ cũ, bạch đức Thế Tôn!

- Đồng ý là vậy! Nhưng con cũng cần cho chủ biết! Đến đi đều minh bạch cũng là một phẩm tính tốt đẹp trên đời đó con.

Thế rồi, đức Thế Tôn đã cho chú chăn bò thọ đại giới. Và đúng như chú ấy đã tuyên bố là sẽ xu hướng đến Niết-bàn nên chú đã đắc quả A-la-hán không lâu sau đó!

Pháp thoại đã được thuyết xong qua lối trình bày rành rẽ, khúc chiết, mạch lạc của tôn giả Mahā Moggallāna làm cho đức Phật rất hài lòng:

- Câu chuyện chú chăn bò A-la-hán ấy, ông thuyết thật khéo, không thua gì ông Sāriputta đâu.

Còn đối với đại chúng, một số vị tỳ-khưu xuất thân bà-la-môn, xuất thân sát-đế-lỵ, xuất thân giới vệ-xá thương buôn, từ rày về sau, họ không còn dám coi thường giai cấp thủ-đà-la hoặc kẻ đói nghèo, nô lệ nữa. Hóa ra căn tính con người, phẩm tính con người, giá trị con người không lệ thuộc bởi giai cấp, phụ thuộc bởi những nấc thang giá trị do xã hội quy định như trong trường hợp cụ thể vừa rồi, ai cũng thấy rõ cả. Có người thấy thêm sự thật đó do chư vị trưởng lão thuyết lại lần thứ hai, lần thứ ba và họ càng thâm tín về giáo pháp.

Có ai đó thốt lên:

- Thật tuyệt vời thay là chú chăn bò Nanda!

Chú chăn bò A-la-hán chỉ có mặt trong giáo pháp của đức Tôn Sư mà thôi vậy!


(1) Pháp cú 73: “Asataṃ bhāvanaṃ iccheyya, purekkhārañca bhikkhusu; avāsesu ca issariyaṃ pūjā parakulesu ca”.

(2)Pháp cú 74: “Maṃ eya kata maññantu gihī pabbajitā ubho; maṃ ev’ativasā assu kiccākiccesu kismici; iti bālassa saṅkappo icchā māno ca vaḍḍhati”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/01/2020(Xem: 7976)
Niệm Phật và Bệnh Ung Thư Kính bạch Thầy, Sau 12 lần xạ trị đã xong. Con muốn chia sẽ cùng đại chúng những tâm nguyện mà con đã trải qua: Một câu niệm Phật cũng đủ làm cho tâm mình nhẹ nhàng, thanh thoát dù có ra đi bất cứ lúc nào. Con: TT Bệnh ung thư tháng ngày vẫn nhớ Biết bao lần xạ trị đã qua May nhờ niệm Phật Di Đà Đời ta vẫn thấy lướt qua nhẹ nhàng.
24/01/2020(Xem: 8608)
Chiều cuối năm lướt thơ Xuân qua mạng, Vẫn tập tục truyền thống … nhắc đến Mai Bánh chưng xanh hương vị …chẳng đổi thay ! Bao thương nhớ gợi về gia phong nếp cũ …
24/01/2020(Xem: 5856)
Nắng oi ả hè chưa lời tiễn biệt Tình còn mơ tình thắm lá mùa thu Xuân tha thiết Xuân mềm trên khoé mắt Giọt long lanh giọt thấm giọt Xuân thì.. Đất rạn vỡ cười reo vui khắp phố Đào hồng tươi khoe sóng nước lung linh Nụ tầm xuân chuyện lòng chưa thổ lộ Giờ thì thầm cho cánh bướm hồi sinh. Nhớ ơn nước ngọt ngào thương đất nước Giọt mưa Xuân tắm mát tuổi xuân hồng Cho hoang tàn rừng sâu xanh lá mướt Giữa nắng đời cây từ ái đơm bông. Từng hạt bay dưới hiên chùa tha thướt Tiểu trầm tư thầm đến tháng ngày trôi Xuân chửa tàn người ơi thôi vội bước Ngắm hoa lòng rạng rỡ nở trên môi..
19/01/2020(Xem: 7441)
Nhân dịp xuân về Trần gian đón tết Lòng người hoan hỷ vô bờ Ngập tràn niềm vui thắm thiết
18/01/2020(Xem: 8905)
Tử sinh đừng hỏi, kẻo phí lời. Thời tiết "nhân duyên" vốn tại trời. Mây núi nào không bay cạnh núi, Sóng nào chẳng ở chốn xa khơi. Hoa nở tháng Ba, luôn vẫn vậy. Gà gáy canh năm đánh thức người. Cái đạo, cái tâm ai thấu hiểu, Mới biết phù du sống ở đời. ~ Tuệ Trung Thượng Sĩ ~
17/01/2020(Xem: 8812)
Nhận được tập thơ LẮNG TÂM Của cư sĩ Minh Đạo gởi tăng vào những ngày cuối năm 2019, dù đã đọc đi đọc lại vài lần, có ý định viết vài lời cảm nhận nhưng lòng vẫn cứ băn khoăn mãi vì e rằng những lời nhận xét thô thiển của mình sẽ không “chạm” được hoặc không “với tới” ý tưởng của tác giả. Nhưng suy đi nghĩ lại thì là chổ thân tình với tác giả nên cũng không ngại lan man vài điều.
14/01/2020(Xem: 8794)
Vần trăng vằng vặc sáng soi. Đôi chim xoả cánh tung bay giữa trời. Mây ngàn ái dục nhiễm ô. Mặt hồ tĩnh lặng phẳng phờ tịch nhiên. Từ bi xuất hiện Chơn thiền. Mặt hồ phẳng lặng ứng liền Như Lai . TVGPhiLong
13/01/2020(Xem: 8254)
Dù đời có vui buồn Nhớ giữ chánh niệm luôn Thực hành lời Phật dạy Đừng học lý thuyết suông
13/01/2020(Xem: 6990)
Vầng mây xám, bay ngang Trời-Kiếp-Trước Tìm cơn mưa buốt lạnh ở Đời-Sau Hạt lệ ai, có trong ngày mưa ấy? Mà tử sinh nào, ta thất lạc nhau!
11/01/2020(Xem: 6695)
(Kính tặng Sư Cô Thích Nữ Quảng Tâm - "Đôi Chân Đất", một người xuất gia dành phần lớn thời gian để lội suối băng rừng, lặn lội đèo dốc, băng vượt đường đất nẻo xa bất kể mưa nắng đến với đồng bào nhọc nhằn nghèo khổ ở những vùng sâu vùng xa, Sư Cô cũng là nhịp cầu kết nối giữa những tấm lòng yêu thương đầy trắc ẩn của những người thiện nguyện và bà con hoạn nạn bệnh tật, những mảnh đời bé bỏng côi cút thiếu thốn vất vã ở các vùng cao nguyên đìu hiu rét buốt...)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]