- 01. Con Chó Khôn Ngoan
- 02. Mùa An Cư thứ tám
- 03. Một Số Giới Điều Cần Thiết
- 04. Hiện Tại Pháp Lạc
- 05. Về Hơi Thở
- 06. Chỉ Việc Thở Thôi
- 07. Hóa Độ Du Sĩ Magandiya
- 08.Ôi! Chàng Gọi Chúng Em Là Những Bà Chị!
- 09. Cô Bé Visākhā
- 10. Thế Nào Là Một Bà-La-Môn Chân Chính?
- 11. Bà Phu Nhân Xinh Đẹp
- 12. Bài Học Về Vườn
- 13. Bậc Chư Thiên Ái Kính
- 14. Bài Học Về Rừng
- 15. Đại Thần Chú
- 16.Thêm Một Gia Chủ Hữu Danh
- 17. Khúc Thán Ca Vô Thường Bất Hủ
- 18. Chiếc Lá Đắng
- 19. Hạt Giống Hy Hữu
- 20. Tu Hạnh Chó Và Hạnh Bò
- 21. Vị Thánh Bảy Năm Trong Bình Máu
- 22. Những Người Bạn Cũ
- 23. Chiếc Phao Phước Báu
- 24. Sa-Môn Đầu Trọc
- 25. Hóa Độ Bà-La-Môn
- 26. Lại Nhiếp Hóa Bà-La-Môn Nữa
- 27. Chuyện Tỳ-Khưu Nanda
- 28. Sắc Đẹp Hoa Sen
- 29. Cảm Hóa Cô Dâu Hư!
- 30. Bậc Chiến Thắng Bất Diệt
- 31. Đặc Tính Của Biển Lớn
- 32. Người Đàn Tín Hộ Trì Tối Thượng
- 33. Một Doanh Gia Thành Đạt
- 34. Đức Hạnh Nhẫn Nhục Của Tỳ-Khưu Puṇṇa
- 35. Một Nghệ Sĩ Kỳ Lạ
- 36. Vị Thánh Trong Bụng Cá
- 37. Những Câu Hỏi Vớ Vẩn !
- 38. Rāhula Ngủ Trong Nhà Xí
- 39. Voi, Lừa Và Đa Đa
- 40. Tấm Gương Học Tập Của Rāhula
- 41. Bài Học Của Nai Tơ
- 42. Cô Thị Nữ Lưng Gù
- 43. Mùa An Cư thứ chín
- 44. Như Thớt Voi Giữa Trận Tiền
- 45. Gà Sống, Gà Chết
- 46. Mũi Tên “Phản Nghịch”
- 47. Giẻ Rách Cũng Hữu Dụng
- 48. Ngọn Lửa Hận Thù
- 49. Báo Ứng
- 50. Nghiệp Nhân Từ Quá Khứ
- 51. Giọt Nước Cặn Trong Gáo Vệ Sinh
- 52. Chuyện Đàn Chim Cun Cút
- 53. Không Hận Thù Mới Dập Tắt Được Hận Thù
- 54. An Lạc Của Hạnh Độc Cư
- 55. Như Nước Với Sữa
Khúc Thán Ca
Vô Thường Bất Hủ
Rời Nālakagāma, đức Phật và đại chúng bộ hành theo con đường thương mãi để đến thị trấn Pāṭaligāma phồn vinh bên này phía nam sông Gaṅgā. Tại đây, ngài dừng chân một vài trú xứ, sách tấn tăng ni, sau đó vượt sông lên Vesāli...
Sau trận tai họa dịch bệnh, Vesāli phục hồi sinh lực rất nhanh. Nhờ biết tin vào những giá trị thiêng liêng, biết đoàn kết, biết sinh hoạt hội đồng với tinh thần dân chủ, biết cải cách chính sách kinh tế - nên đất nước sớm giàu mạnh, thịnh cường. Đi vào thành phố, chỗ này cũng công trường, chỗ kia cũng công trường. Ba bức tường thành chớn chở và kiên cố vòng quanh Vesāli như những vòng đai thép bảo vệ kinh đô - có ba cửa lớn vào ra luôn luôn có lính ôm gươm giáo sáng lòa. Rồi những vọng gác và những vọng gác, đêm đêm hỏa đăng sáng rực. Những dãy phố, dãy lầu kéo dài từng dặm, từng dặm phô ra tất cả mọi đường nét và sắc màu nguy nga tráng lệ...
Đi bên sau đức Phật, chư tăngi trầm trồ vì coi chừng, Vesāli sẽ vượt trội Rājagaha!
Biết đức Chánh Đẳng Giác không muốn xen vào một nhận xét nào, nên tôn giả Sāriputta nói:
- Là bậc xuất gia phạm hạnh, chúng ta không nên góp ý về việc phú cường của một quốc độ. Riêng tôi thì chỉ thấy lòng người thể hiện ra bên ngoài mà thôi! Tôi đọc được rằng, đó là tham vọng chinh phục, tham vọng bá chủ và cả tham vọng củng cố quyền lực. Tôi lại còn nghe mùi binh đao và máu lửa nữa đấy!
Nghe vậy, đức Phật bảo:
- Hãy ghi nhớ lời của Sāriputta! Đấy cũng là pháp duyên khởi đương nhiên vậy!
Đêm đó, đức Phật và đại chúng ngụ ở Đại Lâm. Tôn giả Sāriputta dẫn hai cô em gái sang ni viện để hôm sau cho thọ giới.
Cuộc lễ vừa chấm dứt thì tỳ-khưu-ni Ambapālī từ ngoài vào, đến đảnh lễ đức Phật và chư tôn trưởng lão. Đức Phật mỉm nụ cười nhẹ:
- Này con gái, đời sống phạm hạnh với tuổi già có thấy dễ chịu không?
- Rất mát mẻ và thảnh thơi, bạch đức Thế Tôn!
- Ừ! Đức Phật gật đầu - Con cũng đã trải qua không biết bao nhiêu là gian truân, chìm nổi. Chỉ do một phát ngôn bất cẩn, thiếu thận trọng mà con đã chịu không biết bao nhiêu kiếp đọa đày, thống khổ.
- Đệ tử cũng đã biết rồi, đã thấy rồi, bạch đức Thế Tôn!
Thế là cả đại chúng hôm đó đều đã biết người kỹ nữ nỗi tiếng thành Vesāli, vị tỳ-khưu-ni già đã chứng quả A-la-hán, luôn cả thần thông.
Và đây là câu chuyện của nàng.
Sau khi xuất gia, tỳ-khưu-ni Ambapālī không được vui do tuổi già, không còn đủ lanh lẹ trong mọi sinh hoạt như các tỳ-khưu-ni khác. Có một dao động mãnh liệt khi thấy bản chất già yếu, lụm khụm, mệt mỏi... và sự biến đổi, thay đổi của thân xác.
Hôm kia, ngồi bên bờ suối vắng vẻ, nhìn ngắm chiếc bóng già nua thấp thoáng ẩn hiện trong dòng nước, tỳ-khưu-ni Ambapālī kinh cảm, tràn đầy xúc động, thốt lên một bài kệ như sau:
“ - Ôi! Mái tóc thanh xuân của ta,
Mái tóc màu xanh sậm tợ mắt con ong chúa
và bồng bềnh sóng gợn từ gốc tới ngọn
Bây giờ sắc đẹp ấy đã bị phá hủy
Do bệnh hoạn, do tuổi già
Do lửa thời gian thiêu đốt
Nó khô rang giống như sợi vỏ cây gai dầu
Ai rồi cũng phải bị tuổi già khống chế,
bị sự vô thường chi phối
Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!
Ôi! Một thời,
Mái tóc của ta tỏa hương thơm
giống như một hộp đựng châu báu
hoặc như một hộp đựng hương
Do trên đầu ta luôn phủ đầy hoa puppheti,
hoa campaka, hoa aribian
cùng bột hương và các loại hương liệu tế nhị, quý phái
Còn nữa, mái tóc ta dày rậm
như một khu rừng khéo trồng,
mỗi sợi tóc là mỗi gốc cây luôn được bảo vệ,
chăm sóc như trong công viên của hoàng gia,
Nó mềm mại, êm ái và sực nức thơm tho.
Lại còn được làm đẹp
với lược gắn bằng vàng ròng tinh chất,
với trâm cài có đính kim cương -
Nó óng ánh, đẹp đẽ
và chói sáng giống như ngày hội của muôn sao
Bây giờ thì nó đã thưa thớt dần
Sau khi cạo bỏ,
nó lại phảng phất mùi hôi như lông chú cún,
khó chịu như mùi lông cừu
Ôi! Quả đúng là một rừng bất tịnh
Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!
Ôi! Một thời,
Đôi làn mi của ta
đã được họa sĩ trứ danh khéo vẽ
Đẹp tựa vầng trăng lưỡi liềm
Nó không những điểm màu xanh tinh tế,
màu gợi cảm tinh tế
mà còn pha thêm hồn của liễu rủ,
hồn của những sợi tơ con bướm ngài
Phải nói là nó đẹp đến tuyệt mỹ, vô song
Bây giờ đôi làn mi ấy
chỉ còn là những sợi rơm rạ khô vàng
kéo theo những tia nhăn nheo phủ xuống mệt mỏi,
báo hiệu sự già lão, chết chóc
Ôi! Một thời,
Đôi mắt của ta đen huyền và xanh thẳm
như đôi mắt của chúa bồ câu,
chúa thiên nga, chúa nai trong rừng sâu
Nó lại còn rực rỡ, chói ngời
nhưng xanh trong và tỏa sáng dịu dàng
như hai luồng châu báu
Bây giờ, tháng năm biến đổi
Nó đã đục lờ như nước sữa chua
Nó đã lấm tấm mọc lên li ti
những mụn bụi, mụn cát màu xám nâu
Nó xấu xí, bạc nhược và vô hồn đến nỗi,
có thể đem so với đôi mắt con cá chết,
nhưng mà con cá chết ươn!
Ôi! Đang lúc tuổi trẻ dậy thì
Mũi của ta mềm dịu,
Ngay thẳng và sáng trong
Sống mũi là một gò núi tinh tế, tuyệt hảo
Nó kiều diễm như châu ngọc không có tỳ vết
Bây giờ thì nó sụp xuống như ống cống bị gãy
lại còn tươm rỉ nước mũi lệt sệt hôi hám
Ôi! Sự thật vô thường thật là khó kham, khó nhẫn;
Đúng như lời dạy bảo của đấng Giác Ngộ, không sai!
Ôi! Một thời,
Đôi tai của ta, vành tai,
trái thùy châu của ta
Nó được những vòng vàng, vòng ngọc,
vòng bạc khéo chế tạo, tế nhị điểm trang
Nó sáng chói như ngọc chuốt
Bây giờ thì nó chảy xệ xuống,
nhăn nheo rủ xuống như hai miếng giẻ rách
Ôi! Sự thật vô thường thật đáng sợ
Đúng như lời dạy bảo của đấng giác Ngộ, không sai!
Ôi! Một thời,
Hàm răng của ta trắng tinh như ngà,
đều đặn như hạt lựu, hạt bắp,
trắng nõn như búp măng chuối mới sinh
Nay thì nó bị bể, bị gãy, bị sâu đục
rồi chiếc rụng, chiếc long
và chúng ngả sang màu vàng, đen xỉn
Trông mới ghê sợ, thê thảm dường bao!
Ôi! Một thời,
Giọng nói, âm sắc của ta ngọt ngào, ngọt lịm
Nó êm ái, du dương
Nó mê ly, thánh thót
Nó quyến rũ mê hồn
Khi ta thốt lên thì nó thỏ thẻ, đường mật,
gợi tình như tiếng chim cu
sống chung trong cánh rừng
cùng những ca sĩ non xanh líu lo tấu nhạc
trong một khúc trường xuân miên viễn
Nay thì nó rè rè, khan khàn, đứt đoạn
giống như gió thổi qua ống sáo trúc bị nứt bể!
Ôi! Một thời,
Chiếc cổ của ta thật là kiều diễm
Nó đầy đặn, mềm mại, tròn sáng
Như vỏ ốc xà cừ bằng vàng
được đánh bóng công phu, khéo tay và tinh tế
Giờ đây trông nó như vỏ mướp đắng phơi khô,
có nhiều ngấn quăn queo,
chỉ còn là bì da đựng lớp mỡ thừa,
chảy xệ, nhão nhoẹt.
Ôi! Một thời,
Hai cánh tay trần của ta mềm mại, tròn trịa
vàng sáng như được tô ngọc
hòa thêm với ánh trăng đêm mười sáu
Nó còn giống như hai ống ngọc tròn
vòng quanh ngôi đền tình ái
Nay thì nó đã xiêu đổ, biến dạng, đổi hình
Và nó yếu ớt, tàn tạ
như đóa hoa kèn trắng bệch
không còn chút huyết sắc nào
Ôi! Một thời,
Hai bàn tay của ta trắng trẻo, mềm dịu,
sáng trắng như trứng gà bóc
Lại còn nhẫn vàng, nhẫn ngọc,
nhẫn kim cương, hột xoàn trang điểm
tô chuốt óng ánh bóng ngời
Nay thì nhăn nheo, nhũn nhèo
mềm xèo như cây hành héo
như nhúm cải luộc!
Ôi! Một thời,
Cặp nhũ của ta căng phồng, tròn trịa
Mơn nõn như hai trái đào tiên
đầu vú cứng cáp tràn trề sinh lực
và đỏ hồng như điểm chu sa
Nay thì nó chảy xệ xuống
Như bầu da khô sữa không còn căng đầy
Như túi nước đã rỉ hết nước
ẻo xèo và nhăn nhúm
Ôi! Một thời,
Thân ta thon thả và chói sáng
như áo giáp vàng đánh bóng
Sau khi đã bôi lên một chất son tinh khiết
Đâu cũng mịn màng, láng lẩy
Đâu cũng tròn căng và thơm tho
Nay thì chúng đã xuống cấp
Như ngôi nhà mối mọt
Đã tàn tạ và mục rữa ở khắp mọi nơi
cả những sinh bào bé tí
cũng cau mặt, nhăn nhiu thảm hại
Ôi! Một thời,
Cặp đùi của ta múp míp đầy đặn
ánh ngời như cặp ngà voi
Mềm mại và uyển chuyển
như bước đi của tiên nữ
Và nó đã làm cho bao nhiêu
vương tôn công tử chết đứng chết ngồi
Vì nó đã được ông thợ trời khéo khắc, khéo tạc
Thành một tác phẩm tuyệt mỹ
Nay thì giống như hai ống tre khô giòn
đến thời quăng vào lửa đốt!
Cặp bắp chân của ta cũng thế
Như được uống nước no,
mịn màng và vàng óng
Lúc nào cũng giống như đôi giày được độn đầy bông
Nay thì nó gầy gò, teo tóp, xương xẩu
rất ít thịt và máu
giống như thân cây mè khô
được cắt bỏ ngoài đồng ruộng
khô nỏ, nứt nẻ
Những sợi lông chân của ta
cũng mịn màng vàng óng
Bây giờ thì như cây cỏ
trong ngôi rừng vừa bị lửa cháy!
Ôi! Cái thân, cái thân!
Các pháp hữu vi kết hợp này
Nó chịu cái già lão hủy hoại
Cái ngôi nhà được vô minh và ái dục xây nên
Nay đã cũ kỹ
cột kèo, đòn dông đã bị hư mục
Mái lợp, tấm che đã xiêu rách tả tơi
Và những lớp vôi trét tường đã đến hồi rụng rã
Cái thân vô thường này
là một cái bọc chứa đầy bất tịnh và đau khổ
Lời dạy của đức Tôn Sư
muôn đời là sự thật
Tham luyến, chấp thủ gì nữa
mà không chịu rời xa?”
Sau khi thốt lên lời thán ca về sự vô thường, biến đổi, bất tịnh của cái thân như thế, tỳ-khưu-ni Ambapālī nắm ngay tướng bất tịnh ấy, lìa tham ái, chấp thủ, đoạn trừ năm triền cái, năm thiền chi xuất hiện đi vào định thiền, tuần tự sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền chỉ trong thời gian bảy ngày. Nhờ tâm định vững chắc, kiên cố, nàng quán sát danh sắc, thấy được thực tánh, tam pháp ấn hiển lộ, chứng đắc các tầng tuệ giác, từ cạn vào sâu, chứng quả A-la-hán với đầy đủ ba minh.
Bổi hổi, bồi hồi, lạc phúc và an tịnh, nàng dùng thiên nhãn, sanh tử minh, rồi túc mạng minh chiêm quan nhìn ngắm các kiếp sống trầm luân sinh tử của mình, cảm thán, nàng thốt lên một bài kệ tán ca nữa:
“- Hóa ra ta đã có căn duyên
từ thời Phật Phussa
Ta thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ
Là chị gái của đức Hiền Trí ấy
Tuy nhiên, dẫu lắng nghe chánh pháp
dẫu bố thí cúng dường lớn lao
ta cũng chỉ biết
cầu mong có được sắc đẹp diễm kiều
Đến thời Phật Sīkhī xuất hiện
Ta sinh ra
trong kinh đô Aruṇa tuyệt vời thanh lịch
Ta xuất gia tỳ-khưu-ni trong giáo pháp này
Hôm kia,
dẫn đầu đoàn Ni chúng đông đúc
đến chùa nghe pháp đức Thế Tôn
có một vị Trưởng lão ni lậu hoặc đã tận
do hắt xì hơi nhổ ra một bãi đờm
Ta bước qua, thấy bãi đờm,
cất lời nguyền rủa
“Con kỹ nữ nào
dám nhổ cái đống bất tịnh ở đây!”
Do lời ác khẩu
phỉ nhổ bậc thánh vô nhiễm
Ta bị đọa sanh ở cõi hỏa ngục
chịu nhiều cực hình đau đớn
Sau đó bị dư nghiệp của quả báo
Ta bị làm kỹ nữ suốt mười vạn kiếp nữa
Đến thời Phật Kassapa
Ta được xuất gia tỳ-khưu-ni
với bậc Đại Chiến Thắng
Nhờ giới hạnh trong sạch
Tích lũy thiện nghiệp
Ta được hóa sanh vào cõi Tam thập tam
Đến thời Phật Sākya Muni hiện tại
Do đã chán các thai bào dơ uế
Nên tuy sanh làm người
Nhưng ta lại hóa sanh tại cây xoài
Nên được đặt tên là Ambapālī
Do nghiệp còn dư sót
Ta vẫn làm kỹ nữ
Do sắc đẹp, tài năng -
thế gian không ai sánh nổi
Nên được phong danh hoàng hậu kỹ nữ
Khi tuổi chiều bóng xế
Ta lại được nghe pháp của đức Thế Tôn
Duyên xưa trổ sanh
được xuất gia tỳ-khưu-ni
Và không mấy chốc
ta đã đạt Tam Minh
Mọi lậu hoặc, kiết sử không còn nữa
Ta thênh thang giải thoát
Ta vô ngại giải thoát
Ta chẳng còn tái sanh, luân hồi nữa
Ta đã làm trọn hảo phận sự của mình
Thực hiện đúng đắn lời dạy của đức Tôn Sư
Chẳng còn gì để làm nữa trên cõi đời
Vô lượng tri ân bậc Vô tỳ vết,
bậc Chiến thắng tam giới,
đã cho con nếm thưởng
hương vị Pháp bảo vô sanh bất diệt!”
Những đoạn kệ, nhất là bài thán ca vô thường bất hủ của tỳ-khưu-ni Ambapālī không mấy chốc được lan truyền đi khắp nơi. Một vị thánh ni, xuất thân là một kỹ nữ vừa được sanh ra trong giáo pháp của đức Thế Tôn là một biến cố trọng đại, được mọi người xưng tán, tôn trọng tụng ca, hàm tàng biết bao nhiêu ý nghĩa, khó nói cho hết được.