- 01. Cần một tấm lòng
- 02. Tâm Như Bất thối qua Viên Giác
- 03. Thầy ơi! Sáng giá chùa làng
- 04. Thử bàn về hình tượng tư duy trong thơ Mặc Giang
- 05. Một cái nhìn về thơ Mặc Giang
- 06. Giao cảm
- 07. Nào Có Ra Đi
- 08. Tiếp chuyện với nhà thơ Mặc Giang
- 09. Quê hương muôn thuở
- 10. Ngược gió hương bay
- 11. Tạ ơn người
- 12. Rộng mở nguồn tâm
- 13. Tình Dân Lạc Việt - Tấm Lòng Bậc Đại Thiền Sư
- 14. Hóa Thân
- 15. Hãy bước ra khỏi Vỏ Ốc Mặc Cảm
- 16. Quê Hương Nguồn Cội
- 17. Bến đỗ bình yên
- 18. Hoa song đường
- 19. Một nguồn thơ bất tuyệt
- 20. Lòng Thành
- 21. Mở cửa nguồn tâm
- 22. Sự dàn trải tài tình, nét tinh anh sáng tạo trong"Quê hương còn đó"
- 23. Không bán thơ
- 24. Đọc Nhịp bước đăng trình và Mở cửa nguồn tâm
- 25. Đọc Thơ Mặc Giang “Thấy tưởng Thường, nhưng Hay, Lạ và Đặc Biệt !”
- 26. Đôi Lời Tâm Sự
- 27. Duyên thơ kỳ ngộ
- 28. Thơ Mặc Giang như những dòng sông
- 29. Tìm hiểu bút hiệu Mặc Giang, thi sĩ Mặc Giang và "chất hoa" trong thơ Mặc Giang
- 30. Thấm đậm trong lòng dân gian
- 31. Vài cảm nghĩ về mẹ nhân đọc tập thơ "Hoa Song Đường"
- 32. Thơ Mặc Giang qua vài thành tựu nghệ thuật
- 33. Khơi dậy sóng tâm tư
- 34. Từ đó khai hoa
- 35. Hành Trình Quê Mẹ
- 36. Mặc Giang không bán thơ đâu
- 37. Nguồn gốc hình tượng rồng Việt trong kiến trúc mỹ thuật chùa tháp
- 38. Gõ cửa giọt không
- 39. Cuộc thi viết online "Mùa hè quê tôi" năm 2008
GÕ CỬA GIỌT KHÔNG
Phương thảo viên, giữa mùa đông.
Hương Tâm cẩn chí
Tháng 11 - 2008
Thơ Mặc Giang bao gồm nhiều thể loại: thơ bốn chữ, thơ năm chữ, thơ bảy chữ, thơ tám chữ, thơ tự do, và cuối cùng là lục bát. Đi vào thế giới thơ ông là đi vào cõi KHÔNG của sinh tử, giữa bờ này và cõi kia, của lòng đại từ, đại bi, của người anh hùng, của người yêu nước ra đi…
Phần lớn lục
bát thơ ông nói về tình yêu quê hương đất nước; phần lớn nói về tình người; phần
lớn nói về phép tĩnh tu, sự đi tu; phần lớn nói về tình thương; phần lớn là ước
mơ một thế giới thanh bình, một đất nước thật sự thái bình. Bao hàm trong đó những
khát vọng cháy bỏng của một tâm hồn yêu quê hương đất nước rất lớn; Bàng bạc
trong đó: dòng máu anh hùng ẩn trong một trái tim nghệ sĩ đi suốt chiều dài lịch
sử, địa lý, thiên nhiên, chim chóc, người, đá cuội, dã thú, cõi hư vô và cõi tồn
sinh.
Xuyên suốt trong ấy: niềm cô
đơn sâu sắc của cánh chim bằng, một giống chim bay rất cao và rất xa.
Trên cơ sở đó: Một người luôn
thao thức theo vận nước nổi trôi, dẫu ẩn chốn thiền môn mà trái tim luôn hướng
về lịch sử một đất nước mấy lần chia phân cho đến bây giờ. Tình trạng phân hóa,
chia rẽ liên miên không dứt. (Trẻ em nghèo không có tiền đến lớp, người già
chưa được phụng dưỡng đủ đầy). Một đất nước nghèo nàn và lạc hậu, người cày cấy
không đủ tiền cho con đi học, càng ngày đất nông nghiệp càng bị thu hẹp lần… Một
nền giáo dục tụt hậu, thiếu hẳn tình nhân ái và lòng bao dung cần thiết. Một
nơi mà tính tham lợi và lòng ích kỷ ngày càng phát triển, cái thiện có nguy cơ
bị dìm trong cái ác khi mà người khuyết tật, nông dân và trẻ em nghèo chưa thật
sự được quan tâm đúng mức. Tình trạng qua phân của đất nước kéo dài dù đã “nhất
thống”, vẫn chưa lành lặn những vết tích nghiệt ngã. Với Mặc Giang sau hết là nỗi
đau. Ông có câu thơ:
Sao ta mang một trái tim đau
Hỏi làm chi nước chảy qua cầu
Không chỉ
mình nhà thơ mang trái tim đau mà gánh nặng nhân gian ấy, là niềm đau chung của
dân tộc, chỉ có những tâm hồn nghệ sĩ mới đủ sức mang vác. Là một trái tim giàu
lòng thương người, yêu nước, thương quê… Là một tâm hồn nhạy cảm trước những
chuyển biến của đất trời, sau bao nhiêu thăng trầm đầy ải giữa cõi tạm chợt ngộ
ra rằng không chỉ đời là một bến mê, cõi phù sinh hư ảo, chốn diêm phù huyễn
hóa. Trên dặm đường còn quá xa xôi của cuộc lữ, mà niềm thương nỗi nhớ chưa hề
nguôi bao giờ, chỉ dừng lại khi ông trở về dưới chốn bóng Phật đài:
Từ ngày tôi bước đi tu
Tâm tư rũ nhẹ mây mù trần gian
Đó là một cõi khác, không hình
tướng, không thanh sắc, không chấp thủ. Đó là cõi KHÔNG:
Lợi danh như
thể phù sa
Cửa quyền như thể sương pha đầu cành
Gõ cửa giọt không (trang 9, quyển 7)
Nói điều này để kết thúc lời tựa trước khi đi vào cõi
thơ. Thơ là cõi riêng, dù thơ được dành cho tất cả, dẫu thơ viết không để riêng
mình thì tình thơ vẫn luôn sâu lắng và cuốn hút giữa một cuộc đời ngắn ngủi.
Nghịch lý này tồn tại từ Hoa Tiên, Nhị độ Mai, Bích Câu Kì Ngộ… Để rồi hội tụ
tuyệt vời nơi thiên tài Nguyễn Du. Với truyện Kiều là đỉnh cao của ngôn ngữ, giữa
phóng dật và cổ điển, giữa chốn thanh lâu là cõi lưu đày với khát vọng “ngày về
hỏi liễu Chương Đài khôn nguôi”, giữa chữ tình và chữ hiếu, giữa hạnh phúc và
đau khổ… là một giòng chảy triền miên không dứt, chẳng thế mà cuối cùng, Kiều
“đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì” sau mấy lần trốn chạy định mệnh không thoát,
nương tựa chốn am mây, muối dưa chay lòng.
1. Có cần phải phân tích nhiều
về thơ lục bát Mặc Giang? Tự bản chất của thơ lục bát vốn trữ tình, thể hiện
qua ngôn ngữ thơ. Lục bát thơ Mặc Giang là một nguồn thơ vô tận, lai láng ý
tình, tràn ngập cõi thơ. Cô đơn, tả cảnh ngụ tình, niềm đau nhân thế, nỗi u
hoài trước cảnh qua phân, nỗi buồn xa xứ, quê hương và cuộc lữ của riêng mình.
Có người trút hết nỗi hận tình vào thơ, thơ ông dường như chưa nói hết mọi ý
tình. Thơ là cõi riêng. Phần còn lại là cuộc tao phùng nơi đất khách giữa chủ
thể và khách thể, giữa tư duy và bản thể, giữa trời và đất, giữa biển và núi,
trăng và sao, để cuối cùng “Gõ cửa giọt không”:
Nhìn trông cát bụi mây mù
Vô môn khép cửa thiên thu giật mình!
Hình tượng trong thơ Mặc Giang khiến người đọc thầm kinh ngạc. Giữa cuộc lữ thênh thang thơ là cõi riêng còn tình thơ thì không không. Không vướng vào một mối u tình nào khác hơn mối sầu nhân thế. Nhưng trên hết là nỗi u hoài suốt chặng đường dài lịch sử, đất nước trải qua mấy lần binh lửa để tôi và anh, chị và em, mẹ và con xa cách hai bên bờ đại dương. Hình tượng con chim Hồng Lạc vừa thể hiện rõ nét vừa ẩn tàng. Chim Lộc Tục phải chăng là giống chim trời, chúng bay suốt mấy ngàn năm lịch sử để rồi không trở về? Nhưng trong khái niệm đi đã hàm chứa sự trở về, trong chuyến trở về đã bao hàm sự chia cách. Điều này ông hiểu rõ hơn ai hết. Nỗi buồn một đất nước qua phân thể hiện rõ trong câu thơ:
Ai nghiêng nắng đổ về tây
Cho chim Hồng Lạc buồn bay cuối trời
Con chim Lộc Tục thuở vua Hùng Vương dựng nước đã bay về
trời, một đi không trở lại chăng, hay nó sẽ bay trở về một ngày nào đó? Không
phải khi nào ta cũng đến được chỗ nào ta muốn đến. Ta đi chỉ vì cuộc lên đường
của người “du thủ” chẳng đặng đừng. Có ai ngờ một chuyến đi là một nửa đời
phiêu linh lục hải, phiêu bạt sơn khê, dặm trường nước chảy phù sa, sỏi đá kêu
đau; nhưng nửa đời đày ải chốn quê người chưa thật bằng sự đày ải trong trái
tim mình. Những cánh buồm lộng gió trùng khơi, những đèo heo hút gió, những đêm
khuya nghe gió gọi trăng ngàn, những ốc đảo xa xăm, những chân trời cao rộng. Tất
cả cái đó chỉ càng khiến cho người thơ trút hết nỗi lòng, khiến cho tình thơ
nhanh chóng chạm đến cung đàn. Điệu nhạc này ngân lên không dứt, nó khiến cho
ta động lòng, khiến mười ngón tay phàm chỉ mong sao gảy được bản đàn muôn
thuở, dễ chừng một trăm năm mới có một lần. Một người chỉ có thơ, Tôi không bán
thơ, Dẫn thơ đi chơi, mà lại trải nghiệm cõi tâm linh của mình đến thế, chỉ qua
những vần thơ giản dị, hàm súc!
Chim đại bàng vỗ cánh tầng
không, mà đại bàng thì bay cao và xa lắm. Mỗi khi nó đã bay, thì vạn dặm mù
khơi. Cũng như chim phượng hoàng, bay rất cao và rất xa. Cánh chim Lộc Tục thuở
Hùng Vương dựng nước, bay cao và quá xa, bay mãi không trở về chăng? Làm sao có
thể hoài nghi điều đó được khi ta biết trong khái niệm đi đã hàm chứa sự về,
trong khái niệm trở về đã bao hàm sự ra đi. Cánh chim Lộc Tục tồn tại mấy ngàn
năm trong tâm thức mỗi người Việt, bây giờ và mai sau để một ngày nào đó tất cả
đều gặp nhau dưới một mái nhà quê hương thật sự thanh bình và nhất thống. Đó mới là
khát vọng của tình thơ giữa cõi Không Không. Nửa đời phiêu linh lục hải thật ra
chỉ tồn tại trong tâm thức ta. Ra đi để trở về, trở về để ra đi. Con chim nho
nhỏ, ánh trăng ngàn, cõi phù sinh hư huyễn, sỏi đá kêu đau. Giấc mơ về một đất
nước không còn cảnh thập nhị sứ quân tranh chấp quyền lực. Sao ông không thấy
rõ điều đó được. Sự sống và cái chết còn có ý nghĩa gì đâu với người đã trải
qua bao lần sống chết.
Tôi đã thoát trong đường tơ kẽ
tóc
Người hiểu hơn ai hết rằng mặc
dù có một thời nào đó, có thể cho đến bây giờ những người đọc thơ ông cũng tìm thấy tâm trạng
mình qua hai câu thơ:
Ngày về mòn mỏi ngóng trông
Nào ai hiểu được người vong quốc buồn
Là một trái tim đa cảm, một
tâm hồn giàu lòng nhân ái, thương yêu muôn loài để ngôn ngữ thơ còn chạm đến chỗ
tinh tế nhất của hồn người trên đường đời vạn nẻo.
Ta xin vén lớp
mây ngàn
Để tìm sao lạc lang thang cuối trời
Trang 261/q3
Đố ai nhặt hết thơ ca
Để ta thôi động âm ba tao đàn
Đố ai nhặt hết trăng vàng
Để ta thôi bắt đường ngang lối về
Vần thơ còn đó, đẹp thay!
Trang …/q2
Những tứ thơ rất lạ, mộc mạc như người dân quê, uyên bác như người thông thái, mà không, đó là những vần thơ đẹp như ánh trăng rừng. Giữa hai mặt của một thực tại thì cõi Đi - Về, Trước - Sau, thể hiện qua ngôn ngữ thơ ông một vòng nhất quán. Mặc Giang từng viết ông có thơ cho đời, cho chị, cho em, cho mọi người… Vì thế cho dù ông không đến, hồn thơ lai láng của ông hay tự thể của ông vẫn hiện hữu đó. Tự trong ý thức sâu thẳm, mỗi người biết rằng cuộc đời chỉ là một giấc mộng nhưng có ai viết như ông:
Đêm đêm tỉnh mộng rì rào
Ba sinh chìm nổi máu đào còn tươi!
Héo hon còn đó nụ cười
Trang 171/q2.
Khiến ta giật mình. Phải chăng thơ là tất cả cuộc đời nên ta tìm thấy trong thơ ông một nghệ thuật diễn cảm tự nhiên, vô số điệp từ chỉ làm cho các tứ thơ liên miên không dứt, mà tình thơ càng trào dâng lai láng lại càng sâu.
Tôi đi trong gió thu phong
Đón trông chiếc lá theo dòng rụng rơi.
Nhiều tứ thơ mới, diễn tả nhẹ nhàng, rất lạ, tưởng bình thường và cũ kĩ mà không! Có thể nói nó ẩn tàng vô số ẩn ngữ.
Tôi đi trong
gió trong mưa
Gom bong bóng nước mà đưa về nguồn.
Tôi đi trời đất vuông tròn
Gom từng giấc mộng nghê thường thế nhân.
Nỗi cô đơn lạc lõng, niềm tuyệt vọng và phẫn nộ biến thành thơ. Bởi thơ là cõi riêng của tâm hồn người nên tự nó, thi ca nói lên tất cả, những u tình, hạnh phúc và đau khổ của đời người. Ở đây người thơ mãi độc hành trong cuộc lữ mênh mang:
Tôi đi không
một âm vang
Nhạc rung không tiếng lên đàng không dây
Tôi đi chưa đó chưa đây
Tôi về hoa lá cỏ cây đổi màu
Tôi đi không trước không sau
Tôi về ngày cũ đêm sâu lụn tàn
Trong sự im lặng đó chỉ có tình thương bao
la mới sưởi ấm được trái tim người. Lòng Từ rộng mở những giọng thơ thấm nhuần
tình đạo là khúc hoan ca làm ấm lòng người viễn xứ. Trên đường đời, ông gặp những
em bé mồ côi, chị bán hàng rong, những người khuyết tật, những bệnh nhân giàu
và nghèo, những con chim nhỏ, cỏ cây hoa lá, đá cuội… Chính phần đạo ca trong
thơ lục bát, phần tả cảnh thiên nhiên, là ánh sáng tâm linh chiếu sáng khắp cõi
vô thường. Hồi ức về thời thơ ấu ở một xóm quê nghèo khi trở về thăm lại mái
chùa xưa, khi bước chân lên đường tiếp tục cuộc hành trình… Ông tự cho mình là kẻ
du thủ trong hóa thân một nhà sư, không còn ray rứt bởi niềm đau nhân thế, nỗi
cô đơn của kẻ độc hành giờ đây hóa giải. Có khi nhà thơ hóa thân thành con chim
nho nhỏ mà tình thơ thì thanh thoát.
Một cánh cửa khác đã mở ra cho
người đọc trên những dòng thơ ông viết:
Bốn mùa thay đổi mới dễ thương
Ươm mơ sự sống mộng bình thường
Bốn mùa tương tức nhồi sinh lực
Khá biết nhau nghe mới tỏ tường
Bốn mùa cho hết cõi nhân gian
Nặng nhẹ chi cho lắm bẽ bàng
Khá biết bốn mùa thay đổi mãi
Biết rồi thì tích tịch tình tang
Trang 60/q1
Lòng từ bi là con thuyền đưa
người đi qua bao nhiêu cửa ải khắt khe của cuộc đời. Những vần thơ đẹp nhất là
những vần thơ trữ tình nhất. Tình thơ cũng như tình yêu, vượt trên thiện ác, nằm
ngoài mọi lý luận so đo. Tự bản thể của thi ca – đạo ca là vô phân biệt trí.
Để: “Giữ lại cây đào trước
sân” ông đã :
Mang thơ đi
khắp cuộc đời
Rải thơ cùng khắp chơi vơi trên ngàn
Dù ai đã bán trăng vàng
Còn tôi gõ tiếng tao đàn thân thương.
Những hình tượng đẹp nhất trong thơ lục bát Mặc Giang thì rất nhiều. Ấn tượng mà ông đem lại cho người đọc, là tình yêu quê hương đất nước, mái chùa thân thương, xóm quê nghèo yêu dấu… Hai câu thơ:
Ai nghiêng nắng đổ về tây
Cho chim Hồng Lạc buồn bay cuối trời.
Hình ảnh “chim Hồng Lạc buồn bay cuối trời” rất gợi!
Một lần nữa, người đọc tìm thấy
cánh cửa vô môn quan mở ra trên chiều sâu của BÁT NHÃ TÂM KINH với những điệp từ
tự nhiên :
Ô hay, các bụi
mây hồng
Kê thành xây mộng kết vòng thiên nhai
(Xây mộng kê thành . Trang 49/q6)
Ô hay, cát bụi mây hồng
Cành không điểm nụ, trổ bông mỉm cười!
Trang 106/q2
Ô hay, cát bụi mịt mờ
Đóa hồng
mỉm nụ bên bờ trầm kha!
Trang 93/6
Phù sinh cát bụi mây hồng
Rong rêu đem vẽ tang bồng mà chi.
Một chút gì đó của Kinh Kim Cương:
Quẳng đi cái nghiệt đảo điên
Não phiền biến mất, bình yên hiện về
Quẳng đi cái nghiệt ê chề
Khổ đau nhường chỗ bốn bề an vui
Vành khô đã gắn môi cười
Đừng bi lụy nhé, hỡi người thế nhân!
Trang 92/6
Cuối cùng, một lần nữa, cánh cửa Vô môn quan mở ra rồi khép lại với : Tiếng chuông vang vọng ngân dài
Nào ai mê ngủ, nào ai tỉnh hồn
… Giật mình gối mộng thiên thai
Bừng trong giấc ngủ mê dài đã lâu
Rụng rơi một cõi tinh sầu!
2. Trọn bài thơ sử dụng đối ý, đối ngữ, vận dụng rất nhuần
nhuyễn phép “tương tức đối đãi” của thập nhị nhân duyên trong nhà Phật mang đầy
tính chất thiền. Ông không ngần ngại sử dụng điệp từ, mỗi lần mỗi ngữ cảnh, một
tâm trạng khác nhau. Có đi sâu vào cõi thơ ông ta mới có thể nhận ra, một lúc
nào đó… nhưng hãy cùng nhau đọc đã. Gượm chút đã nào.
Cô đơn, nỗi cô đơn tưởng chừng
vô tận kiếp, với những dặm mù, tăm cá, biệt tăm, dặm băng, giấc mộng, mơ… trong
cuộc đời ba chìm bảy nổi của người đi:
Xạc xào gió động
rung cây
Rụng rơi xác lá lay lay hoang tàn
…
Chẳng may nghiệp dĩ xa lìa
Biệt còn không biết còn chia nỗi gì
Kẻ thân người sơ, niềm thương nỗi nhớ như một giấc mơ. Những bóng chim tăm cá, những chiêm bao, mộng huyễn, những tang thương, dâu bể, tử sinh, những niềm kia nỗi nọ… Những mong chờ, giọt sương khuya, ánh trăng vàng… Rất gần gũi với người đọc, nhắc ta nhớ đến Nguyễn Du:
Ta thử tìm xem:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím nầy
(Truyện Kiều)
Thân sơ, bặt tích mịt mù
Ghét thương, bặt dấu thiên thu xa mờ
(Mặc Giang)
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh
(Truyện Kiều)
Lênh đênh bến đậu, cuối trời lênh đênh
…
(Nỗi niềm còn đó – Mặc Giang)
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
(Truyện Kiều)
Người về góp nhặt ly tan
Người đi rơi rụng cung đàn biệt ly
…
Người đi về đến nơi nào
Người quay mạnh bước mà sao khóc thầm
…
Người đi thôi thế là xong
Người về thôi thế buồn không đêm dài.
(Một chuyến giã từ - Trang 21/q1)
Chiều tà én liệng truông mây
Hoàng hôn khép cánh nỗi này tình kia
TRĂNG là chứng nhân cho bao nhiêu
cuộc tình đẹp và bao nhiêu dâu bể. Trăng có thể là một ám ảnh của Mặc Giang
chăng? Rất nhiều lần ông nhắc đến trăng như một ám ảnh từ tấm bé, có khi như một
người bạn.
Trăng treo vàng vọt xa gần
(Gõ cửa giọt không) trang 8/7
Vầng trăng mười sáu chia đôi
Nửa từ quê cũ, nửa trôi quê người
(Từ đó xa mờ ) tr/ 1
Rất đẹp! Viết thơ dùng toàn hình ảnh để diễn tả niềm nhớ quê hương.
Vầng trăng ngiêng nửa mái đầu
Nửa in dưới biển, nửa chầu lên non
…
Dặm ngàn sẵn ánh trăng soi
Đường trường mở lối vạn lời hoan ca
(Một chút lưu tình) trang 55/8
Lung linh bát ngát trăng rằm
Nâng tay đỡ cánh hoa đàm thơm hương
Trang 47/8
Trăng sao kinh ngạc khép màn hư vô
Trang 118/q 3
Vầng trăng một mảnh cuối bờ cô liêu
Trang 28/10
Có ít nhất…hai mươi lần vầng trăng được nhắc đến trong thơ ông, chép ra đây thì
dài quá.
BUỒN cũng thường xuyên được nhắc đến trong các điệp từ:
Buồn trông chiếc lá la đà
Đan tâm đoài đoạn, xót xa sao đành
….
Đèn khuya
chợt tắt , giật mình buồn trông
(Tôi còn đứng đó với tôi) tr /100
Tầng không én liệng buồn bay cuối trời
(Đỡ nét mây ngàn) trang 118/2
Buồn trông nước chảy qua cầu
Quyển 2
Đi như những cuộc chiêm bao
Buồn không, ai vẽ cây đào trước sân quyển 2
Ta xin vén lớp mây ngàn
Để tìm sao lạc lang thang cuối trời
( Đỡ nét mây ngàn) quyển 2
Vầng trăng một mảnh chênh vênh
Dõi soi chiếc bóng lênh đênh cuối trời
…Thâu canh le lói bên đèn
Buồn trông đổ xuống dưới thềm trơ vơ
(Một mảnh trăng mờ) trang 14/10
Buồn trông thu tím la đà
…
Một mai sóng vỗ đầu ghềnh
Thuyền du chiếc bóng mông mênh cuối trời
( Ai thương) trang 45/9
NỬA cũng không ít.
Nửa đời một cuộc tử sinh
Nửa mang nửa gởi chút tình trần gian
Trang 36/quyển1
Nửa đời phiêu lãng đi qua
Nửa đời đứng lại còn ta với mình
Trang 126/2
Nửa đời như một giấc mơ
Trăng soi đáy nước bóng chờ đầu non
Tr126/2
Tìm trong câu nói tiếng cười
Nửa in dấu ngọc nửa khơi vô thường
Tìm trong le lói tà dương
Nửa hong giọt nắng, nửa vương ráng chiều
Tr119/2
Nửa bên này tôi đập dũa tôi chơi
Nửa bên kia tôi luyện tôi gang sắt
Nửa bên này phải đày cho thấm mệt
Nửa bên kia không động đậy mảy may
Nửa vầng son thắm đong đầy
Nửa vầng ấp ủ niềm tây ửng hồng
Nửa vầng chị giữ trên ngàn
Nửa vầng tôi giữ trên đàng tôi đi
( Nửa vầng trăng) trang 171/8
Nửa này gió bụi phong trần
Nửa kia phân mục góp phần quê hương
( Cha về thăm lại quê nhà)
Nửa thân còn lại đang mang
Biết bao đồng đội nát tan mấy lần
Nửa thân còn lại cơ bần
Biết bao đồng đội tấm thân sao tìm
( Cha về thăm lại quê nhà)
Thay Phần Kết
Những gì Mặc Giang đang để lại cho đời chính là cõi thơ của ông, kể cả nỗi buồn kể cả niềm vui kể cả hạnh phúc hay đau khổ. Ở một nơi xa ngái bên trời tây lại có một trái tim nhân hậu, một tấm lòng luôn tưởng nhớ đến quê nhà với những vần thơ sáng trong, bình dị như trăng rằm và cũng vô vàn ẩn ngữ, như cuộc đời. Mấy ai viết được những gì mình muốn viết mà không chở theo đó ít tâm tình đau đớn, khắc khoải hay hoan lạc? Nhưng dù là bi thê cõi tạm thì tình thơ luôn đứng trên thiện ác trên những gì gọi là luận lí so đo. Dưới bóng thiền môn, thơ không còn là ẩn ngữ và tứ thơ thì có khi thật ác liệt mà thật vô biên:
Chữ tròn khép lại chữ vuông
Rụng rơi cát đá, vỡ tuông ngọc ngà
Chữ gần khép lại chữ xa
Không gian nín thở, nữa là thời gian
Tất cả trong một, một trong tất cả, tình thơ và hồn thơ lai láng khôn cùng. Thực tại không bao giờ là chốn lưu đày và tình thơ thì Không Không. Trong cõi thơ bất tử, vằng vặc ánh trăng vàng qua kẽ lá.
Vầng trăng mười sáu chia đôi
Nửa từ quê cũ, nửa trôi quê người.