Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập 91

28/11/201113:14(Xem: 12364)
Tuyển tập 91

TUYỂN TẬP THƠ MẶC GIANG

Tuyển tập 10 bài - thơ MặcGiang - 91

(Từ bài số 901 đến số 910)

01.Một cuộc taophùng 901

02.Thương về YếnPhi 902

03.Một cõi mênhmông 903

04.Đốt tâmnguyền 904

05.Nhớ ThiềuNguyên 905

06.Nhớ về HuyềnTrân 906

07.Núp bóng sânchùa 907

08.Khôn nhà dạichợ 908

09.Cái nỗi Ta Bà 909

10.Trường giangmặc tử 910

Một Cuộc Tao Phùng

Tháng 12 – 2007

Tôi đến đây, đất thần kinh cổkính

Thăm cố đô, chỉ một túi trênvai

Phương trời xa đã muôn vạndặm dài

Tôi vẫn bước giữa ngàn trùngthiên lý

Con đường nào, là đường vềcủa ý

Con đường nào, khơi độngnhững nguồn cơn

Cùng bước đi nhìn vết tíchhao mòn

Nghe xào xạc lâng lâng hồnsông núi

Cuộc nhân thế, mộng sầu rungtrái chín

Đeo đỉnh đầu, một mái trắngbụi bay

Thoáng tâm tư lành lạnh gióheo may

Đêm thao thức sao mờ trôngbóng nguyệt

Trong tối tăm, chỉ mong vànhtrăng khuyết

Vắt lưng trời le lói ánh ngànrơi

Vẫn lóe lên chút loáng bạctuyệt vời

Kinh đô đã trầm buồn vơi thếkỷ

Trường Tiền hỡi, có buồnkhông Bến Ngự

Nam Giao ơi, ai hát khúc tìnhtang

Lá me bay, còn rơi rụng bênđàng

Dòng Hương Giang, câu hò chưaước vẹn

Thuyền ai đó, hãy dừng chânmột chuyến

Ghé vô bờ, khách đợi bến sôngxưa

Rồi một mai trời nghiêng nắngđổ mưa

Đất kinh kỳ trầm buồn bao cổkính.

Thương về Yến Phi

Tháng 12 – 2007

YếnPhi em hỡi đâu rồi

Ai nghe tiếng nói tiếng cườiYến Phi

Mầmnon đang độ xuân thì

Hiến thân Đạo Pháp cũng vìlầm mê

Trảiqua sóng gió nhiêu khê

Còn đây, một mái ước thề ngheem

Dù cho ai nhớ ai quên

Nhưng em còn đó, bên thềm thùy dương

Dù cho gió bụi mù sương

Nhưng em còn đó, bên đường nhớ ghi

Yến Phi, em hỡi Yến Phi

Thì thầm biển nhớ cũng vì tên em

Ráng chiều đỡ bóng hoàng hôn

Màn đêm buông xuống vẫn còn trăng soi

Xa xa gió gọi lưng đồi

Trùng khơi sóng vỗ ngỏ lời mến thương

Yến Phi còn đó bên đường

Bờ lau cát trắng thùy dương nhớ người.

Một cõi mênh mông

Tháng 12 –2007

Mộng hải hồ, trùng khơi sóng vỗ

Nghe chạnh lòng, một cõi mênh mông

Vi vu gió gọi ngàn thông

Mai sau rêu phủ thả dòng hoang sơ

Kìa ai đứng đó trơ vơ

Núi cao biển rộng sóng xô xạc xào

Quê người văn vật giương cao

Quê mình vá đắp bọt bèo ngửa nghiêng

Quê người phố xá công viên

Quê mình trăng ngủ, sao đêm mịt mờ

Quê người phố thị rợp cờ

Quê mình èo uột dại khờ hồn đau

Quê người sắc thắm thêm màu

Quê mình đêm tối, canh thâu chưa tàn

Quê người phố thị thênh thang

Quê mình trúc ngã bên hàng tre xanh

Quêngười thư thả an lành

Quê mình nặng trĩu treo mànhngàn cân

Quêngười ngất ngưởng cao ngần

Quê mình cúi mặt cơ cần đắngcay

Quêngười đêm cũng như ngày

Quê mình chưa sáng đã dàyhoàng hôn

Nhìn trông nước nước non non

Gia gia quốc quốc gọi hồn ainghe !

Đốt tâm nguyền

Tháng 12 – 2007

Sao lại gọi truyền đăng tụcdiệm

Sao lại gọi kế thế truyềnthừa

Trước Bảo Tháp nghe lòng xaoxuyến

Đốt tâm nguyền ra sức dựngxây

Không làm gì ô danh cổ đức

Không làm gì hoen ố thiền môn

Tăng Ni hỡi tin yêu dấn bước

Tay đan tay gìn giữ sắt son

Một đảnh lễ dặn lòng ghi nhớ

Tấm thân này không bội ân sư

Có như thế mới nên đảnh lễ

Nếu không thì bẩn áo Như Lai

Nâu sồng một mảnh đeo vai

Đạo - đời, hai gánh đường dàidặm soi

Nếu không, uổng phí một đời

Lại đem sương bạc mà phơinắng chiều

Thà không khoác áo nâu sồng

Chứ không làm nhơ chiếc áo

Thà không Thích Tử đeo dòng

Chứ không nương nhờ cơm cháo

Thân mang, tay xách, vai gồng

Tâm tư tôi luyện nức lòngchưa thôi.

Nhớ Thiều Nguyên

Tháng 12 – 2007

ThiềuNguyên, thế núi lưng đồi

Quang Huyền, đại thụ một đờiđộc cư

Trămnăm một kiếp gần dư

Sử vàng rạng nét tư nghì đanthanh

Tịchliêu bóng cả buông mành

Mấy vòng kềm tỏa đoạn đànhruột đau

Đếnđây, da thấm thịt thau

Phong sương tuế nguyệt, sắcmàu thời gian

Đếnđây, một mảnh quan san

Thiều Nguyên trầm mịch, mâyngàn bay bay

Đếnđây, chưa thỏa lòng này

Đôi bờ mi đọng, cay cay giọtnồng

Xíchxiềng phù thế đeo gông

Nhân danh, giả tướng, tréotròng trần lao

Trùngdương, bọt sóng ba đào

Trường Sơn, gió bụi xạc xàobờ lau

Tangthương vùi lấp biển dâu

Dòng sông cách trở nhịp cầulại qua

ThiềuNguyên, đứng ngó xa xa

Vị non, vị nước, vị gia khắclòng

Nhìnthôi, thỏa chút hoài mong

Sương đêm thấm lạnh, chờ hongnắng chiều

Hoànghôn rải bóng cô liêu

Thiều Nguyên, ôi ! nhớ thươngnhiều Thiều Nguyên.

Nhớ về Huyền Trân

Tháng 12 – 2007

Viếng thăm Đền Huyền TrânCông Chúa

Nhớ Châu Ô, Châu Lý, xa xưa

Báo ân cha, nâng khăn sửa túi

Báo ân nhà, một thuở can qua

Nhìn sắc thể cành vàng lángọc

Ngẫm nhớ câu, cây quế giữarừng

Núi thăm thẳm đèo heo hút gió

Thắp sao mờ, đếm nỗi chung –riêng

Phận nữ nhi, đem thân mở nước

Lại kết giao hai mối an hòa

Bắc nhịp cầu xuyên Namthẳng tắp

Vững sơn hà, dễ được thế ư

Thắp nén hương dâng lên CôngChúa

Hiển thánh linh phưởng phấtđâu đây

Người sống với sử vàng muônthuở

Tên Huyền Trân mãi mãi khôngphai

Thật xứng danh anh thư nướcViệt

Thật xứng danh công chúa nhàTrần

Vì việc lớn băng qua tiểutiết

Áng mây nào, ai vẽ phù vân

Bồng Nga đeo mảnh tơ hồng

Phong sương tuế nguyệt nonsông nước nầy

Hoàng hôn gác mái bờ tây

Thuyền du biển lộng hoa laytrăng ngàn

Trùng dương sóng vỗ mênh mang

Còn đây dấu nét son vàngHuyền Trân.

Núp bóng sân chùa

Tháng 11 – 2007

Hỡiai núp bóng sân chùa

Nâu sồng, áo vải có thừa haykhông

Đừngđem quẳng gánh dòng sông

Khác chi bèo bọt bềnh bồngtrôi đi

Đạotâm, đạo lực, vô nghì

Ngược dòng sinh tử có chingại ngần

Saođem phủ lớp phong trần

Kìa xem cát bụi phù vân khácgì

Dọcđường sỏi đá ai vì

Chông gai ai gánh, ai vì choai

Thươngkhông áo ngắn lưng dài

Co đầu rút cổ leo đài rongrêu

Xưanay, rác rưới lều bều

Bức tranh nhân ảnh còn trêulòng người

Hôhô, mắt nhắm, miệng cười

Miễn đeo hoang tưởng cuộc đờicủa ta

Bôi son, phết gấm lụa là

Ỡm ờ câm ngọng, núp nhà Như Lai

Tung hê, thưa Cụ, thưa Ngài

Một mai rớt xuống tuyền đài khóc thương

Ngoài đời đã lắm ma vương

Trong đạo không thiếu những phường ác ma

Lạithan nghiệt ngã ta bà

Dấn thân phụng sự mới làtrượng phu !

“Khôn nhà, dại chợ”

Tháng 12 – 2007

Nhớcâu “dại chợ khôn nhà”

Ra đường khép nép, về nhàhuênh hoang

Dẫmđi trên những lối mòn

Thau chì lổm ngổm, vàng sonlụn tàn

Miễn sao ai gánh ai mang

Đừng ai đục đẽo ngai vàng của tôi

Chỗ tôi, không thể ai ngồi

Ô dù o bế, kệ tôi, mắc gì

Điểm trang cốt cách phương phi

Cân đai, áo mão làm vì dễ coi

Tiền hô, hậu ủng, leo ngôi

Thưa Ngài, thưa cụ, co vòi, khép re

Rađường, mắt nhắm, tai be

Về nhà, vênh váo làm Nghètrượng phu

Téptôm rút cổ ao tù

Tường thành cố hủ che dù đóngkhung

Thượngtôn, hạ đạp bung xung

Trung ngôn, nghịch nhĩ, lùngbùng mang tai

Chuangoa, thở vắn than dài

Không ai, bị ép bị nài màthôi

Cáimàng chè chuối nếp xôi

Đã quá cũ rích, mà lôi rahoài

Khônnhà, dại chợ, một đời !

Cái nỗi Ta Bà

Tháng 12 –2007

“Dò sông dò biển dễ dò

Nào ai lấy thước mà đo lòng người”

“Ở sao cho vừa lòng người

Ở rộng người cười, ở hẹp người chê”

Đi vào tận chốn sơn khê

Còn nghe những nỗi ê chề trần gian

Huống chi giữa chợ giữa đàng

Cái chuyện thiên hạ ngập tràn đường đi

Chuyện hay chuyện đẹp nói chi

Chuyện xấu chuyện gỡ cấp kỳ lan nhanh

Ôhay, miệng thế không phanh

Luận bàn, đàm tiếu loanhquanh tỏ bày

Cùnhây cám trấu cối xay

Cù nhưa thóc gạo suốt ngàychưa xong

Thờigiờ để trống uổng không

Ngồi lê đôi mách đỡ buồn chưayên

Lân la, nhổm dậy đi liền

Có khi cao hứng mà quên về nhà

Nhân thời nhân thế kêu ca

Xót thay cái nỗi ta bà đáng thương

Khenai gạn lọc tinh tường

Không mang rác rưới, khôngvương sình lầy

Khenai nói thiệt lời ngay

Không thêm không bớt, đẹpthay cuộc đời

Khicần, mới nói đôi lời

Khi không, chẳng nói nhữnglời bung xung

Cầnchi, quét sạch lá rừng

Cần chi, khuyên gió, gió đừngrung cây !!!

Trường giang mặc tử

Tháng 12 – 2007

Cam tuyền bên bờ suối

Trang trải đức thanh lương

Gieo cam lộ cành dương

Giữa trần ai thống khổ

Mưa nguồn xanh cây lá

Pháp nhũ thấm ân sâu

Hạnh phúc và khổ đau

Hai con đường đố kỵ

Nhưng biết nhìn thật kỹ

Vốn là một không hai

Khi tỉnh giấc mê dài

Muôn sông ra đại hải

Nhân sinh đừng ái ngại

Hãy nhìn kia rùa mù

Đừng sống mãi ao tù

Đeo gông cùm nghiệt ngã

Dẫm đi trên sỏi đá

Bước qua mọi chông gai

Đâu không có hoa cài

Trên đường muôn vạn lối

Ta nằm yên đánh giấc

Rung động cả thiên thu

Sóng biếc vỗ đôi bờ

Sông trường giang mặc tử.

01. Tiếng lòng nức nở quêhương 01

02. Thầm lặng 02

03. Việt Nam, quê hương cònđó 03

04. Quê hương còn đó, đợi chờ04

05. Từ đó xa mờ 05

06. Tiếng kêu cứu quê hương 06

07. Thương Thầy An Thiên 07

08. Chùa tôi 08

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/10/2015(Xem: 7108)
Những máy bay ném bom chiến lược tàng hình trông dễ sợ. Những hỏa tiễn siêu thanh liên lục địa xé trời như sấm nổ. Những tàu ngầm âm thầm dưới đáy biển mang đầu đạn hạt nhân. Người ta bảo đó là những phương tiện giữ gìn hòa bình thế giới. Rồi biết bao phi cơ tàng hình mang đầy hỏa tiễn. F-22, F-16, F-35… Những biệt kích, lực lượng đặc nhiệm mang đầy vũ khí ít người biết. Trên không máy bay không người lái rình mò.
22/10/2015(Xem: 8449)
Khi vừa thức giấc mỗi ngày Bạn ơi hãy nghĩ thân này hôm nay Thật là may mắn lắm thay Vẫn còn tỉnh dậy với đầy niềm vui.
12/10/2015(Xem: 8584)
Thầy đi một sáng mùa thu Trong cơn lốc thổi Vô thường tử sinh
11/10/2015(Xem: 6332)
Có người khách hỏi lão hòa thượng: Pháp sư, con muốn hỏi ngài một vấn đề hơi bất kính một chút có được không ạ? Lão hòa thượng: Xin ông cứ nói! Người khách: Lúc ở nơi dân chúng đông đúc thì ngài ăn chay, vậy khi ở một mình trong phòng ngài có ăn thịt không? Lão hòa thượng hỏi người khách: Ông tự lái xe tới đây phải không? Người khách trả lời: Vâng, đúng ạ! Lão hòa thượng: Khi lái xe cần thắt dây an toàn, xin hỏi ông là ông thắt vì sự an toàn của bản thân hay vì cảnh sát? Nếu như vì bản thân mình thì có hay không có cảnh sát ông sẽ vẫn đều thắt thôi. Người khách: A, Con hiểu rồi!
08/10/2015(Xem: 11315)
Khi chim còn sống trên đời Chim ăn kiến nhỏ thấy thời khó chi, Nhưng khi chim bị chết đi Kiến thời ăn nó có gì khó đâu.
06/10/2015(Xem: 11717)
(1) Con nguyện luôn yêu thương tất cả chúng sanh Bằng cách xem họ quý báu Hơn ngọc như ý Để thành tựu mục tiêu tối thượng.
06/10/2015(Xem: 11140)
Con xin đảnh lễ tâm đại bi. Con xin đảnh lễ chư đạo sư cao cả. Con xin đảnh lễ chư Bổn Tôn, Là chư vị ban nguồn cảm hứng về lòng tín tâm và sùng mộ.
05/10/2015(Xem: 7500)
Lại thêm thu nửa trở về, Nghĩ thân đất khách mà tê tái buồn. Nhớ về quê mẹ cội nguồn, Khi nhìn đôi cánh lá vàng nhẹ bay, Nhón chân dạo bước vườn ngoài, Nghiêng mình nhặt lá rụng rơi bên thềm. Sắp từng chiếc lá gọi tên, Thì thầm tên lá theo miền thế gian. Cảnh thu dễ gợi u buồn, Hỏi sao tâm để rộn ràng triền miên. Nhắn lòng ta ráng tịnh yên, Đem sao cho được chữ Thiền vào Thu !
03/10/2015(Xem: 14742)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
02/10/2015(Xem: 9520)
Bài thơ vô cùng súc động Do not stand at my grave and weep (Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ) của Mary Elizabeth Frye (1905-2004) đã được dịch ra không biết bao nhiều thứ tiếng và đã được đọc lên, phổ nhạc, trình bầy không biết bao nhiêu lần bởi các ca sỹ trứ danh. Mary Elizabeth Frye là một bà nội trợ người Mỹ, làm nghề bán hoa. Bà được cả thế giới biết tên vì một lý do độc nhất : bà là tác giả bài thơ « Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ », được viết vào năm 1932. Mary Elizabeth sinh ra ở Dayton, Ohio. Mới ba tuổi đã mồ côi. Sau đến ở Baltimore, Maryland. Năm 27 tuổi lập gia đình với Claud Frye, ông làm nghề buôn bán quần áo. Bài thơ làm bà sau này trở nên nổi tiếng được viết trên một chiếc túi mua sắm, lấy cảm hứng từ chuyện một cô gái trẻ tuổi, Margaret Schwarzkopf, ở với gia đình Frye, đã không thể đến thăm mẹ đang hấp hối ở Đức, vì cô gái là dân Do Thái. Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 12 dòng, không có chủ đề. Frye thấy bạn bè thích nên đã sao nhiều bản và lưu hành, nhưng chưa bao giờ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567