Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập 76

28/11/201113:14(Xem: 12946)
Tuyển tập 76

TUYỂN TẬP THƠ MẶC GIANG

Tuyển tập 10 bài - thơ MặcGiang - 76

(Từ bài số 751 đến số 760)

51. Bảongọc trên tay 751

52. Nétngọc diễm hằng 752

53. Hoa láđơm cành 753

54. Nỗiniềm còn đó 754

55. Nghe từbản thể 755

56. Bay vềtổ ấm 756

57. Tinhsầu vụn vỡ 757

58. Đườngxưa lối cũ đi về 758

59. Còn đâutuổi trẻ ngây thơ 759

60. Nụ cười 760

Bảo ngọc trên tay

Tháng 6 – 2007

Đem triết lý gởi lên đồi gióhú

Đem luận bàn gởi xuống biểngiá băng

Ngay lúc đó, im bặt mọi nóinăng

Niềm chân thực hiển bày nhưtrăng sáng

Có, thì một điểm vẫn ngàn đờinguyên vẹn

Không, thì vô số vẫn bào ảnhhư hao

Sao đi tìm mộng ảo của chiêmbao

Chân không nhận, lại bày thêmgiả tướng

Đã là chơn, thì muôn trùngcộng hưởng

Đã là giả, thì vạn hữu giaikhông

Ta là ta, vô biên tế tương đồng

Nhận ra rồi, lìa ngôn từ biện lý

Hãy nhìn trăng, đừng nhìn vào tay chỉ

Bước về nhà, còn hỏi đường làm chi

Đói ăn, khát uống, đó là cửa huyền vi

Duyên hợp, duyên tan, đứng trên bờ không sắc

Nẻo vô cùng, ngân vang lên tiếng hát

Đường vô chung, trổi khúc nhạc trường ca

Bản lai diện mục, ta vẫn là ta

Thì ngại gì giữa hằng sa thế giới

Cứ sống đi em, đừng có hỏi

Cứ sống đi anh, đừng lo âu

Ta đã có rồi, bảo ngọc minh châu

Mạnh bước đăng trình, bảo ngọc trên tay.

Nét ngọc diễm hằng

Tháng 6 – 2007

Hỏi ai vẽ bước tử sinh

Để cho muôn loại chui mình đi qua

Hỏi ai vẽ cảnh ta bà

Để cho muôn loại trầm kha luân hồi

Nhìn trông nhân ảnh cuộc đời

Ba đường sáu nẻo nổi trôi vô bờ

Ngàn xưa, cũng đã mịt mờ

Ngàn sau cũng thế, dại khờ hồn đau

Tang thương, còn vẽ biển dâu

Hợp tan, còn vẽ nhịp cầu bỏ không

Tử sinh từ độ khơi dòng

Mất còn từ độ phiêu bồng ra đi

Lệ tràn, mòn mấy bờ mi

Khổ đau, mòn mấy vết tì cằn khô

Đưa tay gõ cửa hư vô

Rong rêu đổ xuống mịt mờ giá băng

Nâng niu bức ảnh diễm hằng

Giữ gìn nét ngọc trên đường phù sinh

Sắc không còn có tựu hình

Ta còn chơn thể như mình với ta.

Hoa Lá Đơm Cành

Tình thân thương ấy còn ghi dấu

Dù có thế nào, phải không anh

Tôi giữ mãi, nghìn năm cô đọng

Dù mây mưa, hoa lá vẫn đơm cành

Năm 1982

Nỗi niềm còn đó

Trăng lên, nghiêng nửa lưng đồi

Mùa thu, mấy lá vàng rơi bên đường

Giữa dòng thác loạn ly hương

Chơi vơi tiếng khóc đau thương dậy hồn

Đôi chân những bước dập dồn

Ngày mai, ước vọng có còn gì không

Hôm nay, con nước bềnh bồng

Nghe như mộng mị mênh mông cuối trời

Thuyền đi, đi mãi xa khơi

Lênh đênh bến đậu, cuối trời lênh đênh

Triều dâng, sóng vỗ vang rền

Trăng khuya len lén, nghiêng bên bóng hình

Ngấn sương nhỏ giọt lung linh

Tang thương ập phủ, nặng tìnhcan qua

Buồn trông chiếc lá la đà

Đan tâm đoài đoạn, xót xa saođành

Trong ta, còn mãi nghe anh

Tìm trong đổ nát mong manhkiếp người

Chờ nhau, còn có nụ cười

Một năm chưa được, thì mườinăm sau

Thời gian dù có thay màu

Phong trần mấy lớp, biển dâukhác gì

Sông xưa bến cũ thầm thì

Tôi đi, nào có ra đi bao giờ

Dòng sông hai ngả đôi bờ

Ngả đi còn đó, ngả chờ cònđây

Chiều tà én liệng truông mây

Hoàng hôn khép cánh nỗi nầytình kia

Đêm đêm tiếng vạc kêu khuya

Lại thêm tiếng quốc vọng vềnước non

Tình quê nào có mất còn

Hồn quê nào có hao mòn thờigian

Nỗi niềm còn đó, mênh mang !!!

Năm 1982

Nghetừ bản thể

Tôi bình thản giữa cuộc đờidâu biển

Như hiện hữu của nụ cười, vàcủa con tim

Haykhông, bóng tối im lìm

Vẫy tay cuốn nhẹ nổi chìm tửsinh

Tửsinh từng cuộc tử sinh

Cuồng si đeo đuổi hư vinh làmgì

Giữadòng thác loạn trôi đi

Tâm không, tánh rỗng, Tu Dihiện về

Dừngchân, đổ bóng sông mê

Có không, không có, chưa hềcó không

Kìatrông em bé mục đồng

Cùng ngưu hòa thể bên dòngsông xanh

Annhiên độc biến nhất hành

Đôi bờ bất nhị, đồng thànhchân không

Nhìntrông một áng mây hồng

Phù vân, mạc vấn phải khônglàm gì

Nhiệmmầu, tự thể huyền vi

Hằng sinh tử mãi, chưa đi baogiờ

Hiện,thời một khắc nguyên sơ

Quá – tương, tỉnh mộng, giấcmơ tuyệt tình

Nghetừ bản thể, nguyên trinh

Bờ rêu khép lại, riêng mìnhthế a !!!

Tháng 01 - 1983

Bay về tổ ấm

Ai hay giữa khung trời

Một cánh chim bay qua

Tìm đâu dấu tích

Mỗi chiều về

Hoàng hôn chưa muốn tắt

Chim vội bay mau

Cuối chân trời biền biệt

Màu xanh thay tím chìm sâu

Đâu là con đường nào

Đâu là thời gian nào

Đâu là không gian nào

Màn đêm buông xuống

Kéo trăng sao

Chim bay về đâu

Một hốc đá

Một khe núi

Một cội cây già

Có phải là tổ ấm

Tổ ấm thật đơn sơ

Chim dù cách xa

Vẫn cố bay về

Cuối trời mỏi cánh

Một mình cô quạnh

Úa màu xanh

Vàng màu tím

Đường còn xa

Đừng gãy cánh

Chim ơi !!!

Tháng 6 – 1983

Tinh sầu vụn vỡ

Tràn nước mắt cho bờ mi têtái

Ngập thương đau cho cay xétâm hồn

Gió nào yên dày xéo nỗi thêlương

Mảnh rách nát vá tinh sầu vụnvỡ !

Năm 1983

Đường xưa lối cũ đi về

Cửa chùa mở, lòng hân hoan nởrộ

Ánh đạo vàng hiển lộ, vữngniềm tin

Mùi tục lụy, vốn thăng trầmmấy độ

Bóng phù du huyễn tượng mảimê tìm

Chiều buông xuống, tà dươngdần tắt hẳn

Thôi hết rồi, ảo vọng giữatrùng khơi

Về đây, đạo lý tuyệt vời

Ấm êm cảnh sắc, thảnh thơitâm hồn

Dù một phút, nhưng vô cùngthư thái

Nhứt niệm tâm, nhưng vô ngạikhông lường

Dù một phút, nhưng muôn ngàntự tại

Bao diệu kỳ khi khói quyệntrầm hương

Vềđây, đạo của tình thương

Về đây, mở cửa thanh lương,hỡi người

Về đây,tìm lại nụ cười

Lá tươi thêm thắm, hoa tươithêm màu

Vềđây, thân thiện cho nhau

Tình đời, nghĩa đạo, bớt đau,bớt sầu

Vềđây, dưới ánh đạo mầu

Đường trường xây đắp nhịp cầungàn năm

Lunglinh bát ngát trăng rằm

Nâng tay đỡ cánh hoa đàm thơmhương

Trướctòa Điều Ngự Pháp Vương

Chắp tay cầu nguyện muônphương thấm nhuần

Giãtừ muôn kiếp trầm luân

Lên thuyền bát nhã, vượt ngànbến mê

Đườngxưa lối cũ đi về

Trùng trùng hoa tạng đợi chờtừ lâu

Camlồ pháp nhũ thẩm sâu

Muôn phương ân hưởng đạo mầutừ bi

Chầnchờ lần lữa mà chi !!!

Năm 1982

Còn đâu tuổi trẻ ngây thơ !

Ngày xưa tôi còn bé

Mẹ đưa tôi tới trường

Ngày xưa tôi còn bé

Mẹ cho tôi tình thương

Ngày xưa tôi còn bé

Không biết giận biết hờn

Ngày xưa tôi còn bé

Ôi lứa tuổi thanh lương

Ngày xưa tôi còn bé

Nào biết mộng biết mơ

Rong chơi cùng bọn trẻ

Ôi, tuổi đẹp ngàn thơ

Châu thân hằng ảnh hiện

Dòng sữa mẹ ngọt ngào

Quê hương đồng cỏ nội

Tắm suối mát trăng sao

Nằm trong nôi tôi khóc

Mẹ âu yếm nâng niu

Hỏi sao con lại khóc

Mẹ ơi, biết nói gì

Những ngày xưa mẹ dạy

Biết sống với tình thương

Là cuộc đời khơi dậy

Như muôn sắc thiên hương

Những ngày xưa mẹ dạy

Uống nước biết nhớ nguồn

Mẹ từ muôn thuở ấy

Là còn mẹ, nghe con

Hôm nay, con xa mẹ

Ôi, nhớ mẹ vô vàn

Đâu còn hoa với lá

Nghe lành lạnh tâm can

Đôi chân giờ đã mỏi

Bóng xế kéo chiều tàn

Tuổi thơ còn đâu nữa

Ôi, nhung nhớ miên man

Cuộc đời hằng biến chuyển

Tôi lơ đãng buồn trông

Mẹ hiền ơi, dịu vợi

Tình thương mãi khơi dòng

Quê hương mãi xanh trong

Lòng tôi mãi chờ mong !!!

Một đêm khuya 1984

Nụ Cười

Nụcười ẩn hiện trên môi

Nụ cười còn đó, một thời đãqua

Nụcười chợt thoáng gần xa

Nụ cười kết tụ vòng hoa nhiệmmầu.

Tháng 1 - 1983

01. Tiếng lòng nức nở quêhương 01

02. Thầm lặng 02

03. Việt Nam, quê hương cònđó 03

04. Quê hương còn đó, đợi chờ04

05. Từ đó xa mờ 05

06. Tiếng kêu cứu quê hương 06

07. Thương Thầy An Thiên 07

08. Chùa tôi 08

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/07/2010(Xem: 12545)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
28/06/2010(Xem: 25358)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 8031)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
16/05/2010(Xem: 6646)
Thầy từ phương xa đến đây, Chúng con hạnh ngộ xum vầy. Đêm nay chén trà thơm ngát, Nhấp cho tình Đạo dâng đầy. Mừng Thầy từ Úc tới thăm, Đêm nay trăng sáng ngày rằm. Thầy về từ tâm lan tỏa, Giữa mùa nắng đẹp tháng Năm
10/03/2010(Xem: 10200)
Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Hòa Thượng thì phần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịch thuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, còn ít hơnnữa đối với cả một đời Ngài đã bỏ ra phục vụ đạopháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhaunhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài.
10/03/2010(Xem: 7725)
Ba La Mật, tiếng Phạn Là Pu-ra-mi-ta, Gồm có sáu pháp chính Của những người xuất gia. Ba La Mật có nghĩa Là vượt qua sông Mê. Một quá trình tu dưỡng Giúp phát tâm Bồ Đề. Đây là Bồ Tát đạo, Trước, giải thoát cho mình,
10/03/2010(Xem: 12220)
Tên Phật, theo tiếng Phạn, Là A-mi-tab-ha, Tức Vô Lượng Ánh Sáng, Tức Phật A Di Đà. Đức A Di Đà Phật Là vị Phật đầu tiên Trong vô số Đức Phật Được tôn làm người hiền. Ngài được thờ nhiều nhất Trong Ma-hay-a-na, Tức Đại Thừa, nhánh Phật Thịnh hành ở nước ta.
01/10/2007(Xem: 7512)
214 Bộ Chữ Hán (soạn theo âm vận dễ thuộc lòng)
20/10/2003(Xem: 31221)
Tình cờ tôi được cầm quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của Mặc Giang do một người bạn trao tay, tôi cảm thấy hạnh phúc - hạnh phúc của sự đồng cảm tự tình dân tộc, vì ở thời buổi này vẫn còn có những người thiết tha với sự hưng vong của đất nước. Chính vì vậy tôi không ngại ngùng gì khi giới thiệu nhà thơ Mặc Giang với tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca. Mặc Giang là một nhà thơ tư duy sâu sắc, một nhà thơ của thời đại với những thao thức về thân phận con người, những trăn trở về vận mệnh dân tộc, . . . Tất cả đã được Mặc Giang thể hiện trong Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trong sáng và xúc tích, tràn đầy lòng tự hào dân tộc khi được mang cái gène “Con Rồng Cháu Tiên” luân lưu trong huyết quản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567