Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập 13

26/11/201102:45(Xem: 13677)
Tuyển tập 13

Tình Tự Quê Hương 13

01. Thăm người nghèo

02. Gởi người phế nhân

03. Gởi miền nước mặn đồng chua

04. Gởi người ở vùng cao

05. Thăm người mua bán ve chai

06. Thăm chị bán hàng rong

07. Thăm giới doanh thương

08. Tôi gởi thơ tôi

09. Âm vang hồn tử sĩ

10. Những nấm mồ không tên tuổi

Bài Thơ Mười Ba :

Thăm Người Nghèo

Tháng 12-2004

Bài thứ mười ba thăm giới nghèo

Cái nghèo đeo đẳng mãi đeo theo

Tháng năm thỉnh thoảng chưa qua ngặt

Thì hỏi làm chi thoát cái nghèo

Vốn nghèo nên sống chẳng ra chi

Thiếu trước hụt sau, khổ nó đì

Thẩm thấu cuộc đời nhiều bất hạnh

Cây sầu dần lớn với cây bi

Tôi đã nhìn qua thấy tận tường

Cái nghèo quay quắt khổ không lường

Nào cha nào mẹ nào con cháu

Vá víu từng ngày thật thảm thương

Mái tranh chừa lỗ, ngó ông trời

Vách lá chừa khe, đón gió chơi

Cơm cháy phơi khô, dành nấu cháo

Nhà không đóng cửa, chẳng ai dời

Tháng năm lui tới, không ai hỏi

Thấp thỏm lân la, chẳng ai mời

Đem bán cái nghèo, không ai gọi

Đem khoe cái thiếu, chẳng ai chơi

Cái nghèo cứ thế nó làm reo

Reo suốt một đời đến mốc meo

Đem ném chẳng rơi, quăng chẳng rớt

Biết đâu, lỡ chết, nó còn theo

Xin cảm ơn ai hiểu phận nghèo

Đời tôi tệ quá, bạt hơn bèo

Trông qua ngó lại, còn nghe quải

Khú đế như miêu, nó vẫn meo !!!

Bài Thơ Mười Bốn :

Gởi Người Phế Nhân

Tháng 12-2004

Mười bốn, tôi xin gởi phế nhân

Làm sao như thế biết sao lần

Tôi xin han hỏi tình chân thật

Chia xẻ những người không vẹn thân

Người nói một thời thuở chiến chinh

Đạn bom đã cướp mất thân hình

Quê hương khói lửa đành cam phận

Cam cả nhân gian chẳng nhớ mình

Người thì lại nói lúc thời bình

Giá áo túi cơm, ũi đất, sình

Tấc đất tấc vàng ra trái thúi

Nổ đoành một cái kéo về dinh

Người thì tàn tật mới ra đời

Cha mẹ trông qua luống rụng rời

Nhưng đã là con ươm giọt máu

Nên ươm đến cả một đời thôi

Người thì tật bịnh phát sinh ra

Lúc trước cũng như ai ấy mà

Đâu biết hôm nay mang bịnh tật

Còn chi đâu nữa mà kêu ca

Có người lại bị bỡi thiên tai

Trần thế cớ chi chịu khổ dài

Ách nước tai trời sao tránh khỏi

Đến ai đành chịu, trách chi ai

Cuộc đời như thế, hỡ người ơi

Tiếng khóc lại chen lẫn tiếng cười

Thân thể nào ai mà biết được

Khi tàn, đành khổ đến tàn hơi

Ai có thương, đời sống phế nhân

Trần thân cho thấu những phong trần

Xót thương cơ cảm, còn thương xót

Cho những người mang kiếp phế nhân !!!

Bài Thơ Mười Lăm :

Gởi Miền Nước Mặn Đồng Chua

Tháng 12-2004

Bài mười lăm gởi miền nước mặn

Quến đất phèn nhuộm cánh đồng chua

Bờ lau sậy vành đai lá chắn

Biển mênh mông sóng gợn gió lùa

Thăm miền đất nước của quê tôi

Nước mặn đồng chua thấm mặn môi

Ăn chắt mặc bền nên chất phác

Sống bình thường chẳng nghĩ xa xôi

Hai bên mây nước kéo hai bờ

Én liệng cò bay cá lững lờ

Đôi nẻo giao thoa mùi mặn ngọt

Khổ tuy nhiều đẹp cũng như mơ

Thủy triều lên xuống mỗi ngày đêm

Khi thấp khi cao mấp mé thềm

Dấu nước vỗ bờ, in vách đá

Nước sâu dần, vách đá chênh vênh

Mây nước mênh mông giữa đất trời

Bên bờ biển lộng sóng trùng khơi

Trăng treo lơ lửng chòm mây bạc

Sao ngủ lưng trời sao rụng rơi

Nước mặn đồng chua ngấm biển dâu

Ra vô cũng phải bước qua cầu

Ngược xuôi cũng có thuyền chèo chống

Hai nghiệp nông ngư đãi dãi dầu

Gởi về miền đất mặn tôi ơi

Nước ngọt phèn chua nên lợ lời

Nơi ấy, dân tôi đành phải sống

Một đời lam lũ sóng đầy vơi.

Bài Thơ Mười Sáu :

Gởi Người Ở Vùng Cao

Tháng 12-2004

Bài thơ mười sáu gởi vùng cao

Đồi thấp núi cao gió rạt rào

Tiếng nói vượt trùng reo vắng ngắc

Rừng khuya gối mộng ngắm trăng sao

Trăng tròn mười sáu lại tròn trăng

Đồi núi rừng khuya đón chị hằng

Ca hát bập bùng reo ánh lửa

Êm đềm vui sống những đêm trăng

Nhà sàn dong dỏng cất ven rừng

Vừa mát ban ngày, phòng tối bưng

Theo dấu đánh hơi, loài dã thú

Lâm le đêm viếng, biết đâu chừng

Dân cư thưa thớt sống đơn sơ

Sáng quảy gùi đi, chiều vát vò

Điểm hẹn miền xuôi cùng đổi chác

Ngày ngày cứ thế chẳng âu lo

Rừng sâu, gió núi lộng xa xa

Lối nhỏ, đường đi, nẻo lại qua

Có những loài hoa bên cỏ dại

Hương thơm, nhụy thắm, sắc kiêu sa

Người ở trên cao sống đã lâu

Đã quen rừng núi lại quen màu

Nhìn trời, đủ biết mưa hay nắng

Biết thuận hòa và cả thuẫn mâu

Lòng dạ thẳng ngay, tâm tánh hiền

Chẳng chua chẳng ngót chẳng huyên thuyên

Nghĩ sao nói vậy lời chân thật

Như chim rừng lảnh lót tự nhiên.

Bài Thơ Mười Bảy :

Thăm Người Mua Bán Ve Chai

Tháng 12-2004

Gởi thăm những chị bán ve chai

Buôn bán ra sao có đủ xài

Còn có chút dư, thêm chút để

Ngày qua ngày lại đến ngày mai

Cứ gọi là nghề cho dễ coi

Khi buôn nước mắt bán mồ hôi

Đó đây đi khắp trong thiên hạ

Có chuyến còn may, chuyến mất toi

Bán buôn đủ mọi thứ trên đời

Xoong, chảo, nồi, niêu, chén, bát, môi

Nhôm, bạc, thau, chì, đồng, kẽm, sắt

Và thêm lông vịt nữa, ôi thôi !

Có chuyến đi gần, có chuyến xa

Xe đò, xe lửa, đến xe tha

Ngắn năm ba bữa, dài tuần lễ

Khỏe khoắn gì đâu, mệt thấy bà

Có khi kiếm được, có khi không

Chọn lựa chẳng cho, họ đổ đồng

Hốt đại đem về, rồi chất đống

Còn chi lời lỗ, vốn đi đoong

Kiếm cơm kiếm gạo được là may

Có bữa gặp cò, phủi trắng tay

Ấm ức về nhà, buồn thúi ruột

Rồi năm ba bữa lại đi ngay

Đã bao năm rồi như thế đó

Tay trắng hoàn tay, tay trắng tay

Kiếm chác đôi đồng, tiêu, trả nợ

Ve chai lây lất, xót thương thay !!!

Bài Thơ Mười Tám :

Thăm Chị Bán Hàng Rong

Tháng 12-2004

Hỏi thăm những chị bán hàng rong

Cuộc sống ra sao, có đỡ không

Buôn bán những gì trong đó chị

Mỗi một ngày, kiếm được khá không ?

Ngày ngày gồng gánh bán hàng rong

Những bữa nhanh tay, đỡ nhọc lòng

Đỡ bỏ công, hôm khuya, sớm tối

Nai lưng, tiền cắt, kiếm đôi đồng

Bán khoai, bán bắp, bán chè xôi

Bù lại, chế qua, đủ đắp bồi

Bữa nọ, bữa kia, thay đổi món

Dần dà, khách khứa cũng quen thôi

Chị gánh hàng rong đến cuối đường

Trời còn ngái ngủ mới tinh sương

Bước chân đon đả, đôi vai gánh

Thêm bớt kì kèo, đổ xót thương

Bán buôn, kiếm sống, tạm qua ngày

Hết bán rồi, thì lại trắng tay

Bán được ngày nào thì có sống

Còn không bán nữa, phải đong, vay

Cho nên đã trải mấy năm qua

Cho đến hôm nay tuổi đã già

Dậy sớm, thức khuya, đâu nổi nữa

Lâu lâu một gánh, mệt ui cha

Mua gánh bán bưng khổ một đời

Khi buông đòn gánh, chẳng còn hơi

Đồng vô, mở cửa, đồng ra sạch

Biết thế, nhưng làm sao, chị ơi !

Bài Thơ Mười Chín :

Thăm Giới Doanh Thương

Tháng 12-2004

Bài thơ mười chín thăm doanh thương

Buôn bán, đương nhiên, đủ mọi đường

Nhưng sống có tiền, nhân có hậu

Cho thuyền đời chở những thanh lương

Nghề nào cũng trải những chua cay

Khổ trí, nhọc tâm, xẫm mặt mày

Đổ sức cần lao, còn nặng nhẹ

Nhưng mà cố sống được, là may

Không buôn, không bán, chẳng ai cho

Nhưng bán buôn thì phải đắn đo

Hơn thiệt, lỗ lời, sao phải phải

Muốn đa, tích tiểu, đừng ăn to

Tiếng làm người chủ, nói, nghe oai

Ai biết nai lưng đến cõm còi

Sớm tối bơ phờ, không thở nổi

Bạc tiền công sức, đếm đầy vơi

Người ta đã nghỉ tự đầu hôm

Mình thở không ra đến tối ồm

Vừa mới nửa khuya bừng thức dậy

Lại làm, lại tính, lại lom khom

Hỏi thăm cho biết những thâm tình

Biết sống ở đời, biết nhục vinh

Chẳng trọng, chẳng khinh, chẳng dối trá

Ai ai cũng khổ, phải riêng mình

Bước ra, có tiếng thưa ông chủ

Bước vô, chờ tiếng, để hỏi bà

Đừng để tiếng đời, khua uế xụ

Biết cho người và biết cho ta !!!

Bài Thơ Hai Mươi :

Tôi Gởi Thơ Tôi !

Tháng 12-2004

Bài hai mươi, viết gởi thơ tôi

Thăm khắp trùng dương, thăm núi đồi

Thăm khắp nơi, hang cùng ngõ hẻm

Gởi cho đời, và gởi cho tôi

Thơ tôi, đem gởi ở trên ngàn

Lơ lửng cho mây kéo lang thang

Thăm thẳm cho sao mờ lấp lánh

Mênh mang cho nguyệt tỏa trăng vàng

Thơ tôi, đem gởi ở trên đồi

Cho núi lên non để ngó trời

Cho dốc lên đèo nhìn vũ trụ

Cho không gian hết những chơi vơi

Thơ tôi, đem gởi ở trên cao

Để gió lay lay, lá xạt xào

Để cát bụi tàn, thôi khởi động

Xuống trần gian hết những hư hao

Thơ tôi, đem gởi xuống đầm sâu

Để thấm bùn nhơ phủ ngập đầu

Để vượt tầng không vươn khỏi nước

Sợi thơ, vẫn óng ánh thiên thâu

Thơ tôi, đem gởi xuống dòng sông

Dù nổi trôi, mưa gió dập dồn

Dù có phiêu bồng ra biển cả

Làm cho thơ, ý đẹp khơi dòng

Thơ tôi, đem gởi xuống nương dâu

Hải biến điền tang nhuộm sắc màu

Lại có bờ lau bên cát bụi

Nên hồn thơ thấm những thương đau

Không đâu, tôi có gởi đi không

Nếu có thì thơ chẳng có dòng

Còn nếu không, thì thơ chẳng có

Nên hồn thơ cứ mãi đi rong !!!

Âm Vang Hồn Tử Sĩ !

Tháng 12-2004

Một buổi chiều, tôi viếng thăm nghĩa trang quân đội

Từ nghĩa trang, tôi thấy mặt mũi khắp mọi chiến trường

Từ nghĩa trang, tôi thấy trên mọi vùng đất quê hương

Nơi đâu cũng có cảnh chiến chinh

Nơi đâu cũng có người gục ngã

Một buổi chiều, tôi vẳng nghe hương hồn tượng đá

Nên biết được anh, qua hình ảnh mộ bia

Từ cuộc chiến nào, anh đã vội xa lìa

Bỏ bè bạn, bỏ những người thân yêu ở lại

Anh ra đi, vì một lằn đạn xuyên qua, tê tái

Nên anh đi, cùng những đồng đội đã hy sinh

Anh đi về một cõi âm linh

Gát tay súng, giã từ vũ khí

Từng hàng mộ bia, quên dần thế kỷ

Bỗng tôi nghe những âm vọng lạnh lùng

Anh nằm xuống, đời anh đã cáo chung

Đất ôm thân anh, một dấu nét rêu mờ chiến sử

Thịt xương nào, phơi chiến hào, chiến sự

Đạn bom nào, xuyên nát ruột, nát gan

Anh nằm yên khi cuộc chiến chưa tàn

Cho đến khi kết thúc, thêm bao người ngã gục

Nghĩa trang quân đội !

Tàn tích chiến tranh !

Ai vinh danh ?

Ai vinh nhục ?

Anh là thân trai, theo tiếng gọi quê hương

Anh là nam nhi, theo tiếng gọi lên đường

Tổ quốc lâm nguy, anh ra đầu chiến tuyến

Cờ bay, khói quyện

Anh nằm xuống, cho quê hương, chứ không phải cho ai

Tôi đến thăm anh, nghe tiếng nói tuyền đài

Hồn tử sĩ vi vu

Theo hồn thiêng dân tộc

Thịt da anh, trả về cho đất

Máu xương anh, trả lại núi sông

Tôi đến thăm anh

Một buổi chiều hè mà sao giống chiều đông

Trong lành lạnh tâm can

Trong tro bụi điêu tàn

Còn lại nét âm vang, hồn tử sĩ !

Những Nấm Mồ Không Tên Tuổi !

Tháng 12-2004

Tôi chợt thấy giữa rừng già tiết đọng

Nấm mộ không tên, chôn đã bao lâu

Và chỉ vùi chôn, lấp vội, không sâu

Nên mưa gió đã xói mòn, ló dạng !

Trên tấm áo bị thủng nhiều vết đạn

Có lẽ người này chết không được yên lành

Khi quê hương mịt mù khói lửa chiến tranh

Bom nổ, đạn bay, vô tình xuyên phá

Chiến tranh nào, không trả giá !

Bom đạn nào, không nổ vang !

Khói lửa nào, không điêu tàn !

Thịt xương nào, không tan nát !

Người nằm đó, phong sương mờ gió cát

Hồn phiêu du, lạc lõng bụi mù bay

Cùng những hồn đơn vất vưởng đêm ngày

Chết và vùi lấp, không ai hay biết

Những nấm mồ hoang, kể sao cho xiết

Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu

Từ đồi cao, cho đến hố thẳm, đồng sâu

Chết và lấp vội, lạnh lùng trong khói lửa

Chinh chiến dài, đằng đẵng, còn chi nữa

Nên biết bao người, lấp vội, không tên

Theo thời gian đi vào thế giới lãng quên

Những người thân bặt âm, nên cho rằng mất tích

Có những đêm cô tịch

Chợt nhớ nấm mồ hoang

Lòng thổn thức bàng hoàng

Xin chắp tay khấn nguyện

Người chết âm thầm, không họ không tên, không thân không quyến

Người chết lạnh lùng, chôn vội chôn vàng, không khói không hương

Hồn bơ vơ, lưu lạc chốn thê lương

Đếm cây cỏ bên rừng hoang quạnh quẽ

Quê hương mình biết bao nhiêu những kẻ

Chết nghẹn ngào, và lấp vội ai hay

Uï đất kia, ai biết được đêm ngày

Dần tan biến một hình hài cát bụi

Người chết đi, biết gì không, tiếc nuối

Người chết đi, biết gì không, kêu thương

Nhưng nơi đây, hồn ai đó vấn vương ?

Phảng phất mãi những nấm mồ không tên tuổi !!!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/09/2021(Xem: 5117)
Đức trọng quỷ thần kinh ! Kính dâng Thầy bài thơ khi nhận được email trong nhóm bạn nói về những điều không thể giải đoán được trong cơn đại dịch này ...Và con tự chiêm nghiệm phải chăng chỉ có một lối thoát duy nhất cho chúng ta là tạo thêm nhiều công Đức và bồi dưỡng Phước hơn bằng cách hãy gia tăng bố thí và cúng dường , cùng tự tịnh kỳ ý ...thì may ra ....Kính chúc sức khỏe Thầy, HH Chuyện dài đại dịch thế kỷ nằm trên mọi thảo luận Nhân bản tin từ giới bác sĩ ... điều lạ kỳ (1) Dù lập trình ... chống lại vi rút khá tinh vi Nay... nên áp dụng đạo lý thánh hiền mà đối phó Có phải chỉ “Đức trọng....quỷ thần kinh “ mới khó ! Con vi rút này không thể chạm thánh hiền Gây tang thương đổ vỡ mặc ai có nhiều tiền Thử ngẫm xem ... mình nuôi dưỡng, đã kiệm bao Phước, Đức ?
05/09/2021(Xem: 6125)
Lung linh ngọn nến hồng Cảm tác sau lễ cầu siêu Hương linh Phật tử Quảng Thanh Phạm Thiện Sơn tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu Lung linh ngọn nến hồng Quyện theo khói trầm hương Hòa theo lời kinh tụng Thầy dẫn em về đây Cảnh chùa vui thanh tịnh Trên xứ Úc châu này Ngôi chùa tên Bồ Tát Vị Quảng Đức thiêu thân Giữ giềng mối Đạo Pháp Trái tim Ngài bất diệt Hương linh em thanh thoát Quyện theo từng lời kinh Cùng tiếng mõ nhịp đều Đưa người thoát trầm luân Em nghe đâu tiếng vọng Thầy giảng pháp vô thường Thế gian là huyễn mộng Thân tứ đại hợp tan Đất trở về với đất Lửa trở về với lửa Gió theo đường mây bay
04/09/2021(Xem: 7286)
Thầy kính, con cám ơn Thầy đã giảng " Bản môn + Tích môn" cho con nghe, hiện con đang đi Kur khi về con sẽ đọc. Thầy đã gợi lại hình ảnh ngôi chùa Quán Âm Ngài Quảng Đức trụ trì, khoảng thời gian 1978 con thường đến chùa Quán Âm nghe HT Thông Bửu thuyết Pháp Hoa kinh, cứ mỗi rằm, 30 con thường tới chùa tụng sám hối và phụ nấu cơm cúng dường trai tăng , con thích nhất vào những buổi sau giờ ăn được phát cơm cho những người ăn mày. HT TB thường bảo con " Mai là Danh, là khỉ" vui lắm! HT chỉ dùng cơm với rau muống luộc và có giọng trì mật tông "UM" rất trầm hùng
03/09/2021(Xem: 5315)
Ngày lễ mừng Cha lại về trên quê hương Nước Úc Kỳ diệu mỗi năm đều trùng hợp mùa báo hiếu Vu Lan Ấm áp tâm linh niềm hạnh phúc miên man Hướng về Cha thế tục, cùng quý Sư Cha đầy tâm Đạo! Kính dâng trọn lòng thành đảnh lễ ngôi vị trân báu Cõi Ta Bà hội nhập làm lợi khắp quần sanh Rất giản đơn chỉ quan tâm chăm sóc sự an lành Với tất cả năng lực hy sinh vô điều kiện !
02/09/2021(Xem: 4949)
Mẹ hát đưa tiễn ta đi, Mang theo tiếng mẹ ta đi vào đời. Dù đi trọn kiếp con người, Vẫn chưa quên hết những lời mẹ ru.
01/09/2021(Xem: 6485)
Kính dâng Thầy bài thơ bổ túc cho bài Thừa Tự Pháp ( bài thứ ba trong Trung Bộ Kinh ) đã gửi lần trước . Hy vọng lần này sẽ thật hoàn chỉnh và đầy đủ vì con đã nghe đi nghe lại lần thứ ba và sẽ được Thầy hứa khả .. Con đính kèm lại bài Thừa Tự Pháp , nhưng không có copy bài giảng của Sư Sán Nhiên Kính đảnh lễ Thầy, HH Những bài kinh Trung Bộ ... Khi được giảng sâu vô cùng lợi ích Thừa tự Pháp Phật nào phải chỉ đọc, tụng kinh (1) Học hiểu và thực hành ứng dụng đời sống mình Qua câu ngạn ngữ “ Ngọc bất trác bất thành khí , Nhân bất học bất tri lý “
01/09/2021(Xem: 5190)
Ta buồn cho một kiếp người Lầm than mưa nắng khóc cười rả thân Mưu sinh đây đó thị thành Giờ đôi tay trắng gồng mình về quê.
01/09/2021(Xem: 5208)
Hãy “bịt miệng, rửa tay, yên một chỗ” (1) Mọi nghĩ suy phải tích cực lạc quan Sống vị tha trọng nghĩa xóm tình làng Xây dựng lại gia đình nhiều năng lượng
30/08/2021(Xem: 8888)
Nụ cười Anh tỏa nắng Giữa dịch bệnh đau thương Trái tim Anh lấp lánh Trong cuộc sống đời thường
29/08/2021(Xem: 7286)
Mộng trong mộng, ai tỉnh ai say ? Kính bạch Thầy sáng nay nghe lại buổi trà đàm của Sư Thúc (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) có câu hỏi như sau " tại sao trong lúc nước nhà đang bấn loạn vì dịch mà quý Tăng lại có thể an ổn ngồi đây mà tu tập " Con đã tự mình trả lời đáp án qua bài thơ này ...không ngờ lại trùng hợp chút ít với câu đáp của Sư Thúc ( tuy con không đủ trình độ để hiểu rõ hạnh Sa Môn mà Đức Phật đã thuyết giảng ) . Kính dâng Thầy bài thơ này như con chỉ biết dùng năng lượng tu tập để cầu nguyện , kính chúc sức khỏe Thầy , HH Đời người chớp mắt qua đi như giấc mộng Nhưng ... mộng trong mộng ai tỉnh ai say ? Trà đàm vấn đáp ... nhiều câu hỏi thật hay Ta có thể ung dung bình thản ngồi tu Đạo lý ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]