Rằng chúng ta, con người,
Thực sự là bầy rối
Trên sân khấu cuộc đời.
Rất nhiều vai khác nhau,
Dù muốn hay không muốn,
Toàn những vai buồn đau.
Mất tiền bạc, mất nhà.
Đau cả vì bệnh tật,
Để cuối cùng chúng ta,
Đều phải chui xuống mồ,
Đến lúc ấy có lẽ
Mới thoát khỏi buồn lo.
Ta phải làm thế nào?
Đức Phật nói: Đơn giản
Ta phải sống làm sao
Cái sân khấu cuộc đời
Ta phải cố rời bỏ,
Sống đúng nghĩa làm người.
Với Sự Thật, Thiên Nhiên,
Với tư duy thông tuệ,
Cuối cùng là Sống Thiền.
Phát triển lời khuyên này
Thành giáo lý chủ yếu
Cả mấy nghìn năm nay.
Mời Đức Phật giảng kinh,
Cúng nghìn chiếc đèn lớn
Bày tỏ tấm lòng mình.
Sống bằng nghề ăn mày,
Cũng nghe Ngài giảng đạo,
Nghe xong, bà lão này
Mua chỉ được ít dầu,
Rót vào chiếc đèn nhỏ,
Dâng Ngài, cúi thấp đầu.
Vua thấy, lạ lùng sao,
Nghìn chiếc đèn vua tặng
Tắt hết từ lúc nào.
Của bà lão ăn mày
Vẫn tiếp tục tỏa sáng.
Vua hỏi: “Sao thế này?”
Đèn nhỏ hay đèn to,
Dầu nhiều hay dầu ít,
Mà tấm lòng người cho.
Xuất phát từ tấm lòng.
Bố thí mà vô cảm
Thì cũng chỉ bằng không.”
TRUYỆN ÔNG BỐ GIÀU VÀ ANH CON NGHÈO
Ngày xưa có ông bố
Và anh con chia tay
Mỗi người đi một ngả,
Hẹn gặp nhau sau này.
Đúng mười năm sau đó
Ông bố thành rất giàu.
Anh con thì nghèo rớt,
Ăn bữa cháo, bữa rau.
Anh quá nghèo, xấu hổ,
Không đến gặp cha mình
Theo như lời đã hẹn.
Nghĩ mà thấy thương tình.
Tại cái số nó thế
Chứ anh không ham chơi,
Cần cù, không nghiện ngập,
Thế mà nghèo suốt đời.
Một hôm, vì đói quá
Anh ngửa tay xin ăn,
Lại xin đúng nhà bố,
May chỉ gặp gia nhân.
Đứng từ xa, ông bố
Đã nhận ra con mình.
Thấy thế, ông thương lắm,
Nhưng bấm bụng làm thinh.
Rồi ông cho người nói
Rằng có việc đang cần,
Nếu chịu khó làm việc,
Anh sẽ được nuôi ăn.
Anh con liền đồng ý,
Được đưa tới một nơi
Ở rất xa nơi ấy
Làm việc mấy năm trời.
Anh làm việc chăm chỉ,
Làm vất vả, không tiền
Chỉ được ăn no đủ,
Không một lời than phiền.
Bỗng một hôm ông chủ,
Cho gọi anh vào nhà.
Lần đầu tiên gặp mặt
Giữa anh con và cha.
Lúc ấy đang có mặt
Đông đủ đại gia đình.
Ông chỉ anh và nói
Đây là con trai mình.
Ông kể chuyện ngày trước
Hai cha con xa nhau,
Rồi anh con nghèo đói,
Còn ông thì rất giàu.
Và rằng ông thử thách
Con mình mấy năm qua.
Anh đã vượt được nó,
Và nay ông tuổi già,
Đã làm sẵn di chúc
Để lại cho con trai
Hết những gì ông có,
Tức toàn bộ gia tài.
Anh con trai sung sướng,
Chỉ còn biết đứng ngây.
Khi kể xong câu chuyện,
Đức Phật nói thế này:
“Kỳ thực, núi của ấy
Do anh ta làm ra.
Có điều chuyển cho bố
Để giữ cho anh ta.
Ta làm việc, có thể
Thành quả chưa có ngay.
Một khi làm việc tốt,
Nó sẽ đến sau này.”
TRUYỆN SƯ CỤ VÀ ĐỒ ĐỆ CỦA MÌNH
Xưa, có một sư cụ
Cùng đồ đệ của mình
Đi trên con đường vắng,
Mới được nửa hành trình.
Trời nắng như đổ lửa.
Chẳng ai nói với ai.
Đồ đệ sau sư cụ,
Chiếc túi nặng trên vai.
Thấy nông dân cày ruộng,
Giun dế bị xới tung,
Chim sẻ sà xuống bắt,
Anh đau xót vô cùng.
“Kiếm ăn thật vất vả.
Thật bèo bọt kiếp người.
Ta sẽ tu thành phật
Để cứu giúp cõi đời.”
Ngay lập tức sư cụ
Bảo đưa túi cho ngài,
Mời anh ta đi trước,
Rồi khoác túi lên vai.
Anh đồ đệ không hiểu,
Nhưng buộc phải nghe lời.
Thế là anh đi trước,
Nhẹ nhàng và thảnh thơi.
Đường xa, trời vẫn nắng,
Nông dân vẫn làm đồng,
Mồ hôi chảy nhễ nhại,
Chim vẫn bay trên không.
Anh đồ đệ thấm mệt,
Nghĩ: “Quả thật đời này
Có quá nhiều đau khổ,
Muốn cứu, cứu sao đây?
Hay có lẽ tốt nhất,
Chỉ lo cứu lấy mình.
Làm sao ta có thể
Cứu đồng loại, chúng sinh?”
Sư cụ là La Hán,
Đọc được ý nghĩ người.
Ngài trả lại chiếc túi,
Lại đi trước, thảnh thơi.
Cứ thế, họ thay đổi,
Lúc người trước, người sau.
Cả hai đi lặng lẽ,
Nắng vẫn gắt trên đầu.
Cuối cùng người đồ đệ
Đánh bạo hỏi vì sao.
Sư cụ thong thả đáp:
“Hễ bất cứ lúc nào
Con nghĩ đến cứu độ
Cho toàn thể chúng sinh,
Con trở thành Bồ Tát,
Đi trước là hợp tình.
Nhưng lúc con ích kỷ
Muốn mình con thoát đau,
Con là người trần tục,
Nên phải đành đi sau.”
TRUYỆN HAI ĐẠO SĨ VÀ CÔ GÁI XINH ĐẸP
Có hai đạo sĩ nọ
Đang cùng đi trên đường,
Bỗng gặp một cô gái
Xinh đẹp và dễ thương.
Cô gái ấy xinh đẹp
Ngồi bên dòng suối sâu,
Muốn sang bên kia suối
Mà tiếc chẳng có cầu.
Có việc, cần đi gấp,
Biết làm sao bây giờ?
Lội thì sợ ướt váy,
Nên cô đành cứ chờ.
Hay chuyện, hai đạo sĩ
Dừng lại, dáng phân vân,
Rồi một người trong họ
Dùng hai cánh tay trần
Bế cô vượt qua suối.
Rồi hai người lại đi.
Một người đã phạm giới,
Nhưng không ai nói gì.
Tối đến anh bạn trách
Sao dám bế đàn bà.
Người kia thản nhiên đáp,
Vô tư và thật thà:
“Ừ thì tôi phạm giới,
Chỉ một chốc mà thôi.
Vả lại tôi làm thế
Là chỉ để giúp người.
Còn anh, anh không giúp,
Nhưng lại bế cô ta
Từ bờ con suối ấy
Đến tận đây, tận nhà.
Câu chuyện này của Phật
Dạy ta hiểu: Đôi khi
Người thực sự phạm giới
Là người không làm gì.
TỲ KHEO U-TY-A
Xưa, ở thành Xá Vệ,
Có chàng U-ty-a,
Con một nhà giàu có,
Xin phép Phật xuất gia.
Được Đức Phật đồng ý,
Chàng trở thành tỳ kheo,
Đến sống trong tịnh xá
Cùng các nhà sư nghèo.
Chàng là người mộ đạo,
Tu luyện rất chuyên cần.
Chỉ có một điều nhỏ
Khiến chàng thấy khó khăn.
Là ngoài đời phải giữ
Chỉ năm giới mà thôi.
Với tỳ kheo, số giới
Là hai trăm năm mươi.
Chừng ấy điều cấm đoán
Làm chàng mụ cả đầu,
Không tài nào nhớ nổi,
Nên một thời gian sau
Chàng đem tâm tư ấy
Đến gặp Phật Thích Ca,
Xin phép được hoàn tục,
Quay về sống ở nhà.
“Hai trăm năm mươi giới -
Phật đáp, - con kêu nhiều.
Ta giảm xuống còn một,
Con vẫn làm tỳ kheo?”
U-ty-a đồng ý,
Xin phép lại quy y,
Háo hức mong được biết
Điều giới ấy là gì.
“Chỉ một giới duy nhất
Con phải nhớ từ nay.
Nhớ và luôn thực hiện,
Cả đêm cũng như ngày.
Đó là khi con nghĩ
Hay định làm điều gì.
Cả điều lớn, điều nhỏ,
Mọi lúc và mọi khi,
Con phải luôn tự hỏi:
Điều ấy tốt hay không?
Tốt thì làm, ngược lại,
Xấu thì dứt khoát không.”
Chỉ một giới, đơn giản.
Dễ nhớ, dễ thực hành:
Quyết không làm việc xấu.
Chỉ làm việc tốt lành.
Nhờ giữ được giới ấy,
Tỳ kheo U-ty-la
Chứng quả A La Hán,
Được theo hầu Thích Ca.
*
Câu chuyện này có thật,
Được chép trong Sách Kinh.
Từ đó ta có thể
Rút bài học cho mình.
Rằng năm giới Đạo Phật
Ngăn cái Tham Sân Si,
Rốt cục đều qui tụ
Ở nghĩ gì, làm gì.
Tóm lại: Không làm ác,
Chỉ làm điều tốt lành
Và hàng ngày thanh lọc
Các ý nghĩ của mình.
HOA SEN MỌC TỪ BÙN
Thời ấy, ở Xá Vệ
Có một người bình dân,
Thuộc vào hàng hạ đẳng,
Chuyên làm nghề gánh phân.
Như thường lệ, ngày nọ
Đức Phật đi vào thành
Để thuyết giáo Đạo Pháp.
Buổi sáng, nắng vàng chanh.
Không phân biệt giai cấp,
Không phân biệt nghèo giàu,
Ngài đi qua các phố,
Cả những đường hẻm sâu.
Người gánh phân nghèo ấy,
Có tên là Ni Đề,
Như mọi ngày, lúc đó
Đang đi gánh phân thuê.
Anh chàng nhìn thấy Phật,
Đứng thẫn thờ hồi lâu,
Chiêm ngưỡng khuôn mặt đẹp,
Vành hào quang trên đầu.
Tự nhiên anh chàng muốn
Được đến đứng thật gần,
Nhưng rụt rè, không dám,
Mặc cảm nghề gánh phân.
Hiểu được ý nghĩ ấy,
Phật bước về phía anh.
Anh hốt hoảng bỏ chạy,
E sợ điều không lành.
Đức Phật cười, liền hỏi:
“Vì sao con sợ ta?”
“Con nghèo hèn, - anh đáp -
Đẳng cấp Chiên Đà La.
Con chỉ được tiếp xúc
Với những người như con,
Và hết lòng phục dịch
Đẳng cấp Bà La Môn.”
Nghe thế, Phật giảng giải
Về giáo lý của Ngài,
Về bình đẳng, bác ái,
Rằng ai cũng như ai.
Ni Đề nghe, sung sướng.
Sung sướng nhất là khi
Được mời làm đệ tử
Của Đức Phật từ bi.
Sau đó anh theo Phật
Xuống tắm rửa dưới sông,
Rồi quay về tịnh xá,
Khi Ni Đề tắm xong.
Vậy là Phật đã nhận
Một người gánh phân nghèo,
Rồi được Ngài thâu nạp,
Cho trở thành tỳ kheo.
Do chuyên tâm tu luyện
Vị tỳ kheo mới này
Chứng quả A La Hán,
Trí dày, đức cũng dày.
*
Lại nói vua Xá Vệ,
Tức Ba Tư Nặc vương,
Bấy lâu nay khó hiểu
Sao nhiều người bình thường
Mà được Phật thâu nạp,
Như thằng Ni Đề này.
Đó là tiền lệ xấu,
Gây nhiều điều không hay.
Vua bèn đến tịnh xá,
Xin Phật đuổi Ni Đề,
Từ nay không còn nhận
Bọn nghèo hèn, nhà quê.
Khi đến nơi Phật ở,
Vua thấy một tỳ kheo,
Ngồi trên tảng đá lớn,
Mặc quần áo người nghèo.
Vua nhờ tỳ kheo ấy
Vào bẩm báo với Ngài.
Người kia chui vào đá
Mà không thấy ra ngoài.
Lát sau lại xuất hiện,
Cũng từ đá ngoi lên,
Báo Đức Phật đang đợi.
Vua rất đỗi ngạc nhiên.
Khi hầu chuyện Đức Phật,
Vua thành thật hỏi Ngài
Tỳ kheo chui xuyên đá
Đang ngồi kia là ai?
“Là Ni Đề La Hán,
Vốn là một thần dân
Của kinh thành Xá Vệ,
Chuyên làm nghề gánh phân.”
Ngài nói, dẫu nghèo khổ
Và đẳng cấp thấp hèn,
Nhưng cần cù, thông tuệ,
Đã tự mình vươn lên.
Rằng Ni Đề học đạo
Và khổ luyện lâu nay,
Chứng quả A La Hán
Nên mới có tài này.
Vua lặng im, suy nghĩ.
Phật ôn tồn nói thêm:
“Trong bùn có sen trắng,
Ngài có muốn cầm xem?”
Giờ thì vua đã hiểu
Cái thâm ý của Ngài,
Rằng cả người hèn mọn
Cũng không hề thua ai.
Rằng ở đời quan trọng
Là có tài, thông minh,
Chứ không phải đẳng cấp
Hay xuất thân của mình.
Vậy là vua Xá Vệ
Từ chỗ ghét thành yêu,
Tỳ kheo tài giỏi ấy,
Vốn anh gánh phân nghèo.
Gơn thê, vua xin Phật
Cho La Hán Ni Đề
Hôm sau vào thành nội
Giảng pháp cho vua nghe.
TIỀN KIẾP CỦA PHẬT THÍCH CA
Ngày xưa ở Ấn Độ
Có một vị vua già.
Tên ngài là A Dục,
Con là Câu Nà La.
Câu Nà La có nghĩa
Mắt chim câu hiền lành,
Vì thái tử nước ấy
Rất hiền và thông minh.
Vua là ông vua tốt.
Thái tử được dân yêu
Vì chàng rất khiêm tốn,
Trung thực, hiểu biết nhiếu.
Không may hoàng hậu chết,
Vua cưới thêm một người,
Đẹp thì rất xinh đẹp,
Nhưng độc ác, hợm đời.
Mụ rất ham quyền lực,
Không ngần ngại điều gì,
Thích thao túng mọi chuyện.
Tên mụ là Xích Di.
Bỗng nhiên vua lâm bệnh,
Các thầy thuốc bó tay,
Thế mà mụ tài giỏi
Cứu được vua lần này.
Suốt đời mụ mong ước
Con mụ nối ngôi cha,
Nên dễ hiểu, mụ ghét
Thái tử Câu Nà La.
Nhân chữa vua khỏi bệnh,
Mụ xin được một ngày
Vua cho giữ quốc ấn.
Vua chiều mụ điều này.
Quốc ấn của vương quốc
Là vật bất ly thân,
Nó dùng để đóng dấu
Các lệnh truyền, công văn.
Mụ xúi dân làm loạn
Ở một thành phía Tây,
Khuyên vua cho thái tử
Đến cai trị nơi này.
Thế là chàng phải đến
Một nơi đầy hiểm nguy,
Bất chấp lời can gián
Của vợ, Ma Đa Vì.
Chàng vừa đi hôm trước
Thì hôm sau, lạ thay,
Có lệnh vua mật gửi
Các quan ở thành này.
Lệnh niêm phong, khẩn cấp,
Có quốc ấn triều đình,
Bắt móc mắt thái tử
Rồi bẩm báo về kinh.
Các quan thấy lệnh lạ
Chưa dám vội thi hành,
Mà đem trình thái tử.
Chàng đọc nó, giật mình,
Rồi đau buồn, chàng nói:
“Đây đúng lệnh vua cha,
Lại có thêm con dấu,
Vậy cứ móc mắt ta!”
Nhưng quả không ai nỡ.
Cuối cùng, một người say,
Sau khi được ban thưởng,
Đang tâm làm việc này.
Chàng còn bảo dân chúng
Nhất thiết không giúp chàng,
Vì lệnh cấm điều đó.
Dân thương khóc, bàng hoàng.
Thế là chàng thái tử
Ngồi giữa nắng một mình.
Con ngựa quí chàng cưỡi
Lặng lẽ chạy về kinh.
Vợ chàng nhìn thấy nó
Biết có chuyện không hay,
Liền báo vua A Dục,
Vua phái người đi ngay.
Thế là rõ mọi chuyện.
Vua cho gọi Xích Di,
Lệnh phải đem xẻo thịt,
Xẻo hết, chẳng chừa gì.
Bỗng nhiên chàng thái tử
Lại bênh mụ, xin tha.
Chàng nói người lương thiện,
Chân tu và thật thà
Có thể bị trừng phạt
Vì tiền kiếp của mình.
Rồi chàng kể câu chuyện
Về cái ác, vô minh.
*
Ngày xưa, đã lâu lắm,
Một thợ săn vui mừng
Vì một lúc bắt được
Năm mươi con dê rừng.
Nhưng nếu giết tất cả,
Không mang hết thịt về
Nên quyết định móc mắt
Cả năm mươi con dê.
Vì bị mù nên chúng
Luôn quanh quẩn rất gần,
Chỉ chờ anh ta đến
Bắt từng con ăn dần.
“Tâu phụ hoàng, người ấy,
Móc mắt không ghê tay,
Chính là con kiếp trước,
Nên mới nông nỗi này.
Việc con bị móc mắt
Không hẳn tội Xích Di,
Vậy mong ngài suy xét
Mà tha chết cho dì.
Nếu những gì con kể
Mà ngài vẫn chưa tin
Và dùng dằng chưa quyết,
Thì xin mời ngài nhìn.”
Nói đoạn, chàng vái lạy,
Rồi ngồi xuống, uy nghi:
“Nếu lời tôi nói đúng,
Mắt sáng lại tức thì!”
Lập tức mắt thái tử
Trở lại sáng như xưa.
Xích Du bị đầy ải,
Chàng được nối ngôi vua.
Câu chuyện này có thật.
Thái tử Câu Nà La
Chính là người tiền kiếp
Của Đức Phật Thích Ca.
TRUYỆN NGƯỜI ĐÀN BÀ TỤNG KINH
Xưa, có một bà nọ,
Một hôm gặp sư thầy,
Nói: “Tôi không giác ngộ,
Dù tụng kinh hàng ngày.”
Sư thầy đáp: “Bà biết,
Tụng kinh chẳng khó gì.
Cái khó là phải tụng
Đều đặn và kiên trì.
Bà kia liền thú nhận,
Nói bận việc gia đình
Nên đôi lúc bắt buộc
Phải tạm ngừng tụng kinh.
Nhưng từ nay, bà hứa
Đều đặn tụng hàng ngày,
Quyết không để phân tán,
Theo lời dạy của thầy.
Một năm sau, bà đến:
“Bạch sư thầy, vì sao
Con làm như thầy dặn,
Mà chẳng ngộ chút nào?”
“Là vì, - sư thầy đáp, -
Bà thực sự tụng kinh,
Kiên nhẫn và đều đặn,
Nhưng ý nghĩ của mình
Vẫn còn bay đâu đó.
Vừa tụng kinh, trong đầu
Bà vừa lo đủ chuyện.
Thế thì quả còn lâu...”
Người đàn bà chợt hiểu,
Liền vội vã về ngay.
Bà không chỉ tụng niệm
Rất kiên nhẫn hàng ngày,
Mà chuyên tâm, chuyên ý
Vào lời niệm của mình,
Hoàn toàn không phân tán
Bởi những điều xung quanh.
Mấy năm sau, lần nữa
Bà đến gặp sư thầy,
Cúi thật thấp và nói:
“Hôm nay con đến đây
Để cảm ơn, từ biệt.
Nhờ thầy dạy mà con
Đã tu thành chính quả
Cả thể xác, tâm hồn.
Con tin con chắc chắn
Sẽ được lên Niết Bàn.
Tạm thời trên mặt đất
Thoát bể khổ trần gian.”
Tất cả những chi tiết này được ông vẽ sinh động như thật. Chính ông cũng tự hài lòng với nghệ thuật của mình. Ông có cảm giác như nghe được hơi thở của Prômêtê, ngửi thấy mùi tanh của máu và bị đôi cánh khổng lồ của con chim chạm vào tay áo. Trong khi đấy, phía dưới lại là chiếc hồ con yên ả quen thuộc, có thật và nằm ngay dưới chân núi Tam Đảo, nơi ông vẫn hàng ngày đi dạo. Tất nhiên ông biết sự trái khoáy của hai cảnh đó. Trong hội họa bố cục như vậy không chấp nhận được. Ông biết, nhưng đang bực mình, đang muốn phá phách, ông bất chấp điều ấy. Thậm chí ông còn lấy thế làm thích. Từ trong tranh con chim đen nhìn ông tán thưởng. Còn đôi mắt Prômêtê thì đầy vẻ đau đớn. Ông không dám nhìn lâu vào đôi mắt ấy vì hình như chúng oán trách ông. Cả chiếc hồ con cũng oán trách ông.
Chiều hôm đó ông dạo lâu hơn thường lệ, và lúc trở về do mệt, ông đi ngủ sớm. Trước khi lên giường, ông nhìn kỹ bức tranh lần nữa. Chỗ nước hồ đỏ ông vẽ lại mấy lần, cố bôi xanh thật nhiêu nhưng không hiểu sao chỉ lát sau lại hiện lên màu cũ. Prômêtê đang oán trách ông. Con chim đen trâng tráo nhìn ông với vẻ thích thú không che giấu. Nó là hiện thân Cái ác do chính ông tạo ra, thế mà giờ đây ông cảm thấy sờ sợ nó. Cảm giác sợ hãi mơ hồ ấy len cả vào giấc ngủ.
Trưa hôm ấy, khi ăn xong trở lại phòng, ông họa sĩ thấy bức tranh đã bị ai lấy dao cắt nát, đúng chỗ con chim đen. Miếng vải bị cắt gấp xuống, làm thân hình nó méo mó, cổ bị chém đứt cùng chiếc mỏ sắc nhọn và đôi mắt háu đói độc ác.
Một lúc sau ông già lại xuất hiện. Ông có vẻ bình tĩnh hơn, thậm chí hơi chút ngượng nghịu. Ông lúng túng ngồi xuống, tự tay pha ấm trà, rót vào chén đưa cho khách rồi hắng giọng hai lần, nói:
Leo ngược hết con đường quanh co màu đỏ gạch, ông dừng lại thở, đưa mắt nhìn lần cuối chiếc hồ nhỏ xinh đẹp phía dưới. Nó đã lấy lại được vẻ thanh bình thơ mộng vốn có. Cạnh ngôi nhà nhỏ không xa mặt nước có hai chấm đen nhỏ. Đó là ông bà già đã cho ông ở nhờ nửa tháng qua. Có thể họ đang vẫy tay tiễn ông. Cũng có thể họ đứng đấy canh chừng có phải ông thực sự đi chưa. Rồi ông quay người, chậm chạp bước về phía đường nhựa, nơi có xe về Hà Nội. Trong đầu ông chẳng có gì ngoài nỗi buồn mơ hồ và cảm giác xấu hổ của người vừa làm điều xấu bị người khác đuổi đi. Bên tai văng vẳng câu nói chất phác mà chua cay của ông già: