Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sư Bà Vi Diệu

08/08/201111:51(Xem: 9263)
Sư Bà Vi Diệu



Pagoda_7

SƯ BÀ VI DIỆU

Lần nọ ở Xá Vệ,
Chính tôi, A Nan Đà,
Biết chuyện này có thật,
Khi theo hầu Thích Ca.

Lúc ấy, Ba Tư Nặc,
Ông vua tốt, qua đời,
Người lên thay tàn ác,
Làm mất lòng nhiều người.

Nhiều phụ nữ còn trẻ,
Con nhà giàu, nết na,
Năm trăm người tất cả,
Muốn tìm đường xuất gia.

Họ lo sợ nhục dục,
Tức chuyện lập gia đình,
Cùng yêu đương, tình ái
Sẽ mang họa cho mình.

Vì lòng còn do dự,
Họ tìm hỏi nhiều người,
Trong đấy có Vi Diệu,
Một sư bà hiểu đời.

Thay cho lời khuyên nhủ,
Bà kể câu chuyện này,
Một câu chuyện có thật,
Đau lòng và đắng cay.

*
Có người phụ nữ nọ,
Con gái một nhà giàu,
Hiền lành và đức độ,
Thế mà đời buồn đau.

Khi đến tuổi xuất giá,
Bà lấy chồng, con trai
Một gia đình trưởng giả,
Thông minh và hiền tài.

Vợ chồng sống hạnh phúc,
Rồi sinh con đầu lòng.
Khi sắp sinh đứa nữa,
Theo lệ, bà xin chồng

Về nhà bố mẹ đẻ.
Thế là sáng hôm sau,
Vợ chồng bà xuất phát
Cùng với đứa con đầu.

Mới nửa đường, trời tối,
Họ ngủ dưới gốc cây
Trong khu rừng rậm rạp,
Màn đêm đen và dày.

Bỗng nhiên bà trở dạ,
Máu đỏ chảy thành dòng.
Rắn độc liền kéo đến,
Lặng lẽ cắn chết chồng.

Sáng dậy bà mới biết,
Khóc than vì buồn đau,
Rồi bà gượng đi tiếp,
Lưng cõng đứa con đầu.

Hai tay bà ôm chặt
Đứa con nhỏ mới sinh,
Vừa khóc bà vừa bước
Giữa trời nắng một mình.

Đến một giòng sông rộng,
May nước không quá sâu,
Bà lội xuống, để lại
Trên bờ đứa con đầu.

Tới bên kia, bất chợt,
Bà thấy con trai mình
Ngã xuống sông, lập tức
Bị dòng nước cuốn nhanh.

Bà kêu lên hốt hoảng,
Đặt con nhỏ lên bờ,
Quay lại cứu thằng lớn,
Thì thú dữ bất ngờ

Đến, tha đi đứa bé,
Tức đứa con vừa sinh.
Vậy là bà còn lại
Trơ trọi chỉ một mình.

Bà nằm yên bất động
Rất lâu bên dòng sông,
Khóc đến cạn nước mắt,
Đau như xé trong lòng.

Chợt có ông già nọ,
Quen với bố mẹ bà,
Gặp, rồi báo hỏa hoạn
Thiêu cháy, chết cả nhà.

Nghe tin như sét đánh,
Bà chết ngất, ông già
Thương, đưa về chăm sóc
Như con cái trong nhà.

Mấy năm sau, khuây khỏa,
Một gia đình nhà giàu
Hiền lành và tử tế
Đến xin bà làm dâu.

Bà nhất mực không chịu,
Nhưng mọi người cứ khuyên.
Cuối cùng bà đồng ý
Đi bước nữa cho yên.

Ông chồng bà tốt bụng,
Thế mà rồi một đêm,
Đi ăn uống đâu đấy,
Trở về nhà say mèm.

Chỉ mấy phút trước đó
Bà trở dạ, sinh con.
Đang nằm yên bất động,
Mệt, còn chưa lại hồn.

Thấy vợ không mở cửa,
Giận dữ xông và nhà,
Ông chồng say điên loạn,
Bóp chết đứa con bà.

Rồi đang đêm mưa gió,
Bỏ nhà đi một mình,
Bà đến Ba La Nại,
Ngồi khóc bên cổng thành.

Một lúc sau, bất chợt,
Có một người lại gần,
Một người tốt, chững chạc,
Hỏi chuyện rất ân cần.

Ông này vừa chết vợ,
Con một đại thương gia,
Sau một lúc trò chuyện,
Tỏ ý muốn lấy bà.

Vì không nơi nương tựa,
Cuối cùng bà gật đầu.
Họ sống rất hạnh phúc,
Không ngờ ba năm sau

Ông chồng bà ốm chết.
Theo tục lệ nước ông,
Bà sẽ bị chôn sống
Để xuống mồ theo chồng.

May tối ấy bọn trộm
Đến đào mộ ông ta
Để lấy cắp vàng bạc,
Vô tình đã cứu bà.

Tên trùm thấy bà đẹp,
Bắt làm vợ của mình.
Nhưng rồi hắn bị bắt
Và bị đem hành hình.

Thế là một lần nữa
Lại bị chôn, lần này
Bà được con hổ đói
Moi bà lên, thật may,

Nó chưa kịp ăn thịt
Thì thấy người, bỏ đi.
Để mình bà ở lại,
Mê man, chẳng biết gì.

Cuối cùng, khi tỉnh dậy,
Bà sực nhớ người ta
Thường nói về ân đức
Của Đức Phật Thích Ca.

Thế là bà đi bộ,
Vượt đường dài, gian nan
Đến nơi Ngài giảng pháp
Ở vườn cây Kỳ Hoàn.

Vừa nhìn thấy Đức Phật
Rạng rỡ và uy nghi,
Bà vội vã sụp lạy,
Xin xuất gia, qui y.

Thấy bà gần lõa thể,
Ngài bảo A Nan Đà
Mang đến bộ quần áo
Rồi đặt trước mặt bà.

Ngài nhận bà vào giới
Giao cho một ni sư,
Là bà Đại Ái Đạo,
Thông tuệ và nhân từ.

Ni sư này kềm cặp,
Giúp đỡ bà tu hành,
Dạy “Vô thường”, “Tứ đế”.
Bà tiến bộ rất nhanh.

Chẳng bao lâu sau đó,
Bà đắc đạo, thành người
Hiểu rõ chuyện quá khứ
Và tương lai muôn đời.

Bây giờ bà mới biết
Sao đời bà buồn đau.
Kiếp trước bà là vợ
Một trưởng giả nhà giàu.

Ông này lấy vợ lẽ,
Một cô gái rất xinh,
Nên được ông yêu quí,
Và bà bị nhạt tình.

Thù quá mà hóa dại,
Bà lấy chiếc đinh dài,
Đóng vào đầu đứa bé
Con cô vợ thứ hai.

Về sau bà còn chối
Và thề độc rằng mình
Không hề làm điều ấy,
Viện cả các thần linh.

Rằng “Nếu tôi giết nó,
Thì chồng tôi về sau
Sẽ bị rắn cắn chết,
Con tôi, hổ xé đầu.

Bố mẹ tôi cũng vậy,
Sẽ bị cháy thành tro,
Còn tôi thì đang sống,
Sẽ bị chôn xuống mồ.

*
Đến đây, sư Vi Diệu
Nói: “Người đàn bà này
Chính là ta kiếp trước,
Nghiệp chướng đến ngày nay.”

Năm trăm cô gái trẻ
Nghe câu chuyện của bà,
Quyết dứt duyên trần tục,
Một lòng theo Thích Ca.

Trong đầu còn choáng váng
Vì những chuyện vừa nghe,
Họ cảm ơn sư cụ,
Tạ lễ, rồi ra về.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/09/2010(Xem: 59753)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 8921)
Mười con nhạn trắng về tha Như Lai thường trụ trên tà áo xuân Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm
08/09/2010(Xem: 9120)
Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
06/09/2010(Xem: 11454)
Văn Tế Thiên Thái Trí Giả Tác giả Đại Sư Tuân Thức Việt dịch: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm *** 1. Nhất tâm đảnh lễ Thiên Thai Trí Giả trong núi Đại Tô tu Tam Muội Pháp Hoa Tâm tâm tịnh thường lại qua pháp giới Như mặt nhật trên không chẳng trụ không Ba ngàn thật tướng tức khắc viên thông Tám vạn trần lao đều đồng chân tịnh. Xưa hội kiến Linh Sơn còn hoài niệm Nay toàn thân bảo tháp thấy rõ ràng Nếu chẳng cùng sư Nam Nhạc tương phùng Ai biết được tướng thâm sâu thiền định?
06/09/2010(Xem: 11195)
Trước khi viết loạt bài thơ trong phần 1 (Hương Đạo Pháp) của thi tập này, tôi đã có gần 900 bài thơ, xoay quanh các đề tài như quê hương đất nước, lịch sử, địa lý, giáo dục, cuộc sống hiện thực, triết lý sắc không, nhân sinh quan - vũ trụ quan Phật giáo, xưng tán Phật và Bồ-tát….. Tôi đang tạm thời dừng lại công việc sáng tác và chuẩn bị làm một số công việc chuyên và không chuyên khác. Nhưng chợt nhớ lại nhiều năm trước đây, thỉnh thoảng có trao đổi với vài vị thân, quen, những người đã đọc gần hết thơ tôi. Họ nói, trong số gần 900 bài thơ đã đọc qua, tuy cũng có nhiều bài khuyến tu, nhiều bài mang tính giáo lý sâu sắc, có khả năng tịnh hóa lòng người, tuy nhiên những bài đó nằm tản mạn chưa tập trung. Hơn nữa cũng cần một loạt bài có nội dung giáo lý căn bản với thuật ngữ, danh từ, pháp số thông dụng, nếu có thể cho thành một tập riêng biệt thì càng tốt.
06/09/2010(Xem: 9479)
Phù Sinh Nhiễm Thể Ca, TNT Mặc Giang
06/09/2010(Xem: 10025)
Mùa hạ mà hơi lạnh xông ướp cả gian phòng. Tắt điện, thắp lên ngọn bạch lạp cắm vào một quả thông, nhựa sống vẫn còn mơn man đâu đây, nồng nàn. Mấy mươi năm hiên ngang sừng sững, một cơn bão thổi qua, thông bật gốc ngã quỵ, vương vãi xác xơ. Có gì tồn tại mãi đâu! Rồi tất cả, cũng bị thiêu rụi như ngọn bạch lạp đang cháy dỡ…
06/09/2010(Xem: 11679)
Được sinh ra, lớn lên, đi vào trường học, đi vào trường đời, rồi dong ruổi muôn phương, và dù có ra sao, Quê Hương vẫn Còn Đó ! Từ thuở phôi sinh xuất hiện Lạc Hồng, Hùng Vương - Văn Lang, xuyên qua chiều dài lịch sử, cấu thành mảnh dư đồ Chữ S, với Bắc Nam Trung gấm vóc, với núi non hùng vĩ, biển rộng sông dài, với những tên gọi thân yêu Huế - Sài Gòn - Hà Nội, với từng thời kỳ dù có qua đi, không gian dù có biến đổi, và dù cho vật đổi sao dời, Quê Hương vẫn Còn Đó !
06/09/2010(Xem: 9699)
Người phương tây thường nói “trẻ ước mơ, già hoài niệm”, nhưng sau khi đọc xong tập thơ Hành Trình Quê Mẹ, tôi thấy tác giả, một nhà thơ ở tuổi tri thiên mạng, nhưng lại luôn ghi lòng tạc dạ, nâng niu trân trọng các giá trị được tài bồi bởi tiền nhân; tác giả còn hoài bảo, mơ vọng một hướng sống thiết thực cho người Việt Nam nói chung. Với Mặc Giang, hoài niệm và ước mơ nào có hạn cuộc bởi tuổi tác. Hoài niệm và ước mơ ấy đã trở thành chất liệu tài bồi cho dòng thơ với chủ đề Hành Trình Quê Mẹ tuôn chảy không mỏi mệt, để nguồn thơ của thi nhân vốn nhào nặn từ cuộc sống, trở lại phụng sự cuộc sống ấy, trở thành niềm tự hào kiêu hãnh của trào lưu thi ca hiện đại.
06/09/2010(Xem: 12106)
Qua năm mươi năm, tiếp bước tiền nhân tôi trót vào con đường khảo cứu lịch sử văn học dân tộc. Tôi đã đọc rất nhiều thơ và cũng làm được một số việc cho các thế hệ thơ ca. Nhưng khi may mắn được đọc tập thơ Quê Hương Nguồn Cội (và khoảng 650 bài khác nữa) của nhà thơ Mặc Giang, một tập thơ chan chứa tình quê hương dân tộc, với tâm hồn bao la, sâu rộng bằng trái tim và dòng máu của người Việt Nam, tập thơ đã làm cho tôi hòa đồng trong tác phẩm không còn phân biệt được tâm tư và cảm giác của mình và chỉ còn là một con tim, một dòng máu chung của dân tộc trộn lẫn vào sự cấu tạo chung trải qua mấy ngàn năm lịch sử của núi sông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]