Bông hoa nhỏ nở trong vách đá Chút hương từ một đóa hồng khô héo ngàn năm Hờ hững Kim Cương, gió tràn Bát Nhã Tim lặng, tình êm, mắt ngời thao thức Trong đêm dài Sinh Tử vực nhau!
Kính dâng Đạo Sư Tuệ Sỹ 06.12.2003 Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
---o0o---
Văn Miếu
Đứng bên Văn Miếu Lòng buồn mênh mang Vọng tâm hoài cổ Khói mờ hoang hoang
Thuở xưa Hoàng Giáp Quỳ trong sân rồng Tiếng cồng vua gọi Bản vàng có ông!
Bao năm Kinh Sử Miệt mài nấu xôi Vinh quy bái tổ Võng đào theo đôi
Tên người ghi khắc Bia không phai mờ Mang danh tiến sĩ Đời sau tôn thờ
Nay thăm Văn Miếu Lối mờ rêu phong Rồi kia Hoàng Giáp Lòng ngơ ngẩn lòng
Hà Nội 20.06.2004 Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
---o0o---
Khất Nợ
Đã ngoài ba mươi tuổi Tóc điểm màu ngược xuôi Mặt in hằn năm tháng Giọt lệ khô đôi hàng Trái tim ta hóa đá Thôi rung rồi... âm ba Thơ hoa xin khép lại Sân quanh thưa dấu hài
Em, nụ hồng nho nhỏ Nhẹ phiêu du ngưỡng đời Tâm hiền ru hé đợi Mơ mộng cùng mộng mơ Chưa một lần đắng chát... Lẽ đời nhiều trái ngang
Yêu em trong nỗi sợ Dụ dỗ người ngây thơ Thôi cho ta... khất nợ Đưa em vào trong mơ
Tương lai, 15.05.2004
Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
---o0o---
Thu Cảm
Sương Thu đã chớm đầu cành Gió Thu gieo rắc ngọn ngành biệt ly Tình Thu chợt khởi niềm nghi Tim Thu khát vọng tư nghì xanh xao Sớm Thu bừng tỉnh chiêm bao Chiều Thu ai nỡ xôn xao niệm trần Trăng Thu bóng đổ tần ngần Vào Thu tiếng gọi xa gần... xuất gia!
Chớm Thu, mến tặng chú Đồng Tâm 05.09.2003 Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
Những máy bay ném bom chiến lược tàng hình trông dễ sợ.
Những hỏa tiễn siêu thanh liên lục địa xé trời như sấm nổ.
Những tàu ngầm âm thầm dưới đáy biển mang đầu đạn hạt nhân.
Người ta bảo đó là những phương tiện giữ gìn hòa bình thế giới.
Rồi biết bao phi cơ tàng hình mang đầy hỏa tiễn.
F-22, F-16, F-35…
Những biệt kích, lực lượng đặc nhiệm mang đầy vũ khí ít người biết.
Trên không máy bay không người lái rình mò.
Có người khách hỏi lão hòa thượng:
Pháp sư, con muốn hỏi ngài một vấn đề hơi bất kính một chút có được không ạ?
Lão hòa thượng: Xin ông cứ nói!
Người khách: Lúc ở nơi dân chúng đông đúc thì ngài ăn chay,
vậy khi ở một mình trong phòng ngài có ăn thịt không?
Lão hòa thượng hỏi người khách: Ông tự lái xe tới đây phải không?
Người khách trả lời: Vâng, đúng ạ!
Lão hòa thượng: Khi lái xe cần thắt dây an toàn, xin hỏi ông là ông thắt vì sự an toàn của bản thân
hay vì cảnh sát? Nếu như vì bản thân mình thì có hay không có cảnh sát ông sẽ vẫn đều thắt thôi.
Người khách: A, Con hiểu rồi!
Lại thêm thu nửa trở về,
Nghĩ thân đất khách mà tê tái buồn.
Nhớ về quê mẹ cội nguồn,
Khi nhìn đôi cánh lá vàng nhẹ bay,
Nhón chân dạo bước vườn ngoài,
Nghiêng mình nhặt lá rụng rơi bên thềm.
Sắp từng chiếc lá gọi tên,
Thì thầm tên lá theo miền thế gian.
Cảnh thu dễ gợi u buồn,
Hỏi sao tâm để rộn ràng triền miên.
Nhắn lòng ta ráng tịnh yên,
Đem sao cho được chữ Thiền vào Thu !
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy
Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con,
Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh
Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
Bài thơ vô cùng súc động Do not stand at my grave and weep (Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ) của Mary Elizabeth Frye (1905-2004) đã được dịch ra không biết bao nhiều thứ tiếng và đã được đọc lên, phổ nhạc, trình bầy không biết bao nhiêu lần bởi các ca sỹ trứ danh.
Mary Elizabeth Frye là một bà nội trợ người Mỹ, làm nghề bán hoa. Bà được cả thế giới biết tên vì một lý do độc nhất : bà là tác giả bài thơ « Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ », được viết vào năm 1932.
Mary Elizabeth sinh ra ở Dayton, Ohio. Mới ba tuổi đã mồ côi. Sau đến ở Baltimore, Maryland. Năm 27 tuổi lập gia đình với Claud Frye, ông làm nghề buôn bán quần áo. Bài thơ làm bà sau này trở nên nổi tiếng được viết trên một chiếc túi mua sắm, lấy cảm hứng từ chuyện một cô gái trẻ tuổi, Margaret Schwarzkopf, ở với gia đình Frye, đã không thể đến thăm mẹ đang hấp hối ở Đức, vì cô gái là dân Do Thái. Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 12 dòng, không có chủ đề. Frye thấy bạn bè thích nên đã sao nhiều bản và lưu hành, nhưng chưa bao giờ
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old) Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ: quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.