Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nguồn Thiêng Sử Việt

09/01/201304:53(Xem: 7829)
Nguồn Thiêng Sử Việt
       vn map 4


  GIÁC LƯỢNG TUỆ ĐÀM TỬ
 
                 

 

 

NGUỒN THIÊNG SỬ VIỆT

 

Uống dòng lịch sử Năm Ngàn Năm.

Nước suối Văn Lang hiển diệu thâm,

Nhớ Tứ Thánh Nhân hồn bất tử.

Nguồn Thiêng Hồng Lạc ứng linh thần.

Việt tình truyền thống dân bất khuất.

Nam Đế Vua Hùng Thập Bát khâm.

Quốc thịnh ngàn xưa lưu vĩnh kiếp,

Tổ Tiên truyền nối rạng muôn năm.

 

 

 

CẢM ĐỀ

CHỬ ĐỒNG TỬ (1) *

 

Chử giòng “Quê Chử Xá”(2)  “Cù Vân” (3)

Đồng khố che thân giữa thế trần.

Tử  hiếu thức tâm tìm học đạo.

Thần trung Quốc Tổ, trợ phù dân

Bất ngờ tiền định “Tiên Dung” kết (4)

Tử hóa duyên trần biến báo thân (5)

Việt sử ngàn năm lưu Thánh Hiển.

Nam Bang đệ nhất, “Tứ Linh Thần”.

 

 

1)                   Đệ nhất Tứ Thánh, hồn bất tử.

2)                  Làng Chử Xá.

3)                  Thân phụ là Chử Cù Vân.

4)                  Công Chú Tiên Dung kết nghĩa vợ chồng.

5)                  Xong phận thế trần hai Ngài đều bay về trời.

 

 

 

 

CẢM ĐỀ

 PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG *

 

Phù trợ Vua Hùng, Thiên Sứ lâm.

Đổng làng Gióng, thuộc huyện Gia Lâm.

Thiên sai cậu bé nhà Trời xuống,

Vương Thánh đại hùng cứu nước Nam.

Thượng đức phi thường, vang ngựa sắt.

Đẳng công khí phách giặc Ân khâm.

Tôn thờ nghĩa khí phù dân tộc,

Thần hiển linh mầu, hộ Việt Nam.

 

* Đệ Nhị Tứ Thánh , hồn bất tử.

 

 

 

CẢM ĐỀ

 ĐỨC THÁNH TẢN VIÊN *

 

Đức tỏa ngàn đời, Đức hiếu sinh,

Thánh Vương Sơn Địa, hiển u linh,

Tản bang hồng phúc dân Nam Việt

Viên phép thần thông độ nước mình.

Thượng giới cỡi rồng thân biến hóa.

Đẳng trần gian phụng cứu nhân sinh.

Tôn thờ Thánh Đức lừng danh hiển,

Thần thứ đệ tam, vị Tứ Linh.

 

  • Đệ Tam Tứ Thánh, hồn bất tử

 

 

 

 

 

 

 

 

CẢM ĐỀ

 VÂN HƯƠNG THÁNH MẪU *

 

Vân Hồng Thiên giáng thế nhân y,

Hương tỏa ngạt ngào nhạc pháp thi,

Thánh thoát đào hoa so “Tố Nữ”.

Mẫu Vương Tiên Đức sánh sao bì.

Tiên Nương hiếu đạo tròn cơ cách,

Chúa tiếp hóa dân sứ mạng trì.

Hiển hách hồi Thiên không mộ chí,

Linh Tôn Thần Thượng sắc phong Y.

 

  • Đệ Tứ Thánh Linh, hồn bất tử.

 

                  oOo

 

 

KÍNH BẬC CAO ĐỨC

 

Giác dòng họ Thích Giác nhân sinh.

Lượng tính hiền nhu Hộ lấy mình,

Kính bậc cao tăng Thích đức trọng,

Hòa trong tứ chúng Thượng tôn vinh,

Thượng tình trang trải Hòa hài khắp,

Thích nghĩa bao dung kính bất khinh,

Hộ đạo thương đời Lượng phụng hiến,

Giác nguồn chánh pháp Giác tâm kinh.

 

 

 

 

 

 

 

 

TÌNH TỘC QUÊ HƯƠNG

 

Tặng lời tán thán quý đồng hương,

Ban phát nguồn lòng đến  khắp phương,

Tổ quốc đang lâm cơn đại nạn.

Chức năng người Việt phải lên đường.

Hội toàn dân tộc trong ngoài nước.

Thảo luận cùng nhau để tỏ tường.

Nhân đức chúng ta cần kiến tạo.

Quyền người tộc Việt xứng nêu gương.

 

 

                     oOo

 

 

NGƯỜI HÙNG BẤT KHUẤT

 

Thiếu thời cho đến hết đời binh,

Tướng sĩ chí nhân trọn nghĩa tình,

Nguyễn tộc hùng anh nêu khí phách.

Khoa dòng bất khuất rạng uy danh.

Nam dân khâm phục người “tuẩn tiết”

Quân sử khắc ghi bậc hiến mình.

Đoàn ngũ thề không đầu hàng giặc,

Bốn vùng chiến thuật trọng chân linh.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHÍ KIÊU HÙNG

 

Trần tộc kiêu hùng nối gót xưa.

Văn ghi tướng sĩ chí dư thừa.

Hai thời gánh vác nguyền không nhỏ.

thế đảm đang phận chẳng vừa.

Lệnh chỉ ba quân lòng kính phục,

huy phong vũ dạ đều ưa.

Đoàn người sát đát trừ ma cộng,

Bảy Bộ Binh, quân lực có thừa.

 

 

 

 

 

TRỌN LÒNG YÊU NƯỚC

 

Tưởng niệm muôn đời bậc chí nhân.

Tướng hùng dân tộc đấng danh thần.

Lê Nguyên Vỹ trọn lòng yêu nước.

Tư lệnh sư đòan quyết xả thân.

Tử tiết gương treo người sĩ khí.

Hy sinh danh rạng kẻ vì dân.

Tinh thần bất khuất lưu trang sử,

Giặc bắt không hàng, “tự xử” phân.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

KẺ HÙNG ANH

 

Truy nguyên chí khí kẻ hùng anh.

Niệm tưởng chân linh bậc sĩ hành.

Thiếu tướng quân khu II đất Việt.

Phạm Văn Phú trọn ý trung thành.

trào suy thóai thời cơ mạt.

Lệnh bất phục tùng “tự vẫn” vinh.

Quân ngũ bảo tòan không khuất phục

Đoàn Hai uy vũ mãi lưu danh.

 

 

 

 

 

TỬ TRÒN SỨ MẠNG

 

Truy niệm người hùng Việt tộc ta,

Lê văn, sĩ khí tráng sơn hà,

Hưng danh “tử tiết” thơm nòi giống.

Thiếu tướng sinh thời bảo quốc gia.

Tư lệnh quân đoàn, quân khu IV.

Quyết không hàng giặc lúc cơ sa.

Tử tròn sứ mạng chân linh tướng,

Gương rạng muôn đời, tiếng ngợi ca.

 

 

                        oOo

 

 

 

 

 

 

             HÀNH LỤC ĐỘ

 

 

1 ) Bố Thí:

 

“Bố thí” tùy theo nguyện lực mình,

Trong ba phưong pháp giúp nhân sinh.

Một là “Tài thí” như tiền của.

“Pháp thí” thứ hai mở đạo tình.

Ba là thực hiện tâm “Vô Úy”.

Trải lòng thực hiện lẽ tồn sinh.

Vì chưng “Bố thí” trừ tham lẫn,

Gieo giống Bồ đề độ chúng sinh.

 

 

 

 

2 ) Trì Giới:

 

Quy luật Phật truyền tự bấy lâu

Là môn diệu dược khắp năm châu

Giúp đời “giới luật” phưong châm báu

Độ thế “tam quy” pháp nhiệm mầu

Ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng đã thọ

Giới điều Phật dạy học thâm sâu

Phát tâm tu niệm chuyên trì giữ

Mới dứt tử sanh, thoát nghiệp sầu.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

3 ) Nhẫn nhục:

 

 “Nhẫn nhục” là giới đứng đầu tiên.

Nhẫn được tiêu oan dứt não phiền.

Người đã nương về ngôi chánh giác.

Thực hành pháp nhẫn đúng chân truyền,

Hơn thua phải quấy, thêm oan trái,

Khôn dại đua tranh, tạo nghiệp duyên,

Lửa giận đốt thiêu rừng công đức.

Theo lời Phật dạy: “Nhẫn” cần chuyên.

 

 

 

 

 

4 )  Tinh Tấn:

 

“Tinh tấn” là môn thuốc diệu huyền.

Chữa lành bệnh nhác tập hành siêng.

Muốn cho có quả cần vun  tưới,

Đạo cũng do ta gắng tập rèn.

Nước chảy lâu ngày dần lở núi.

Cọ cây lấy lửa phải cho chuyên.

Tâm thành chí nguyện vun nền đạo,

“Tinh tấn” đưa mình đến Phật Tiên.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

5 ) Thiền Định:

 

Các pháp gồm thâu chước “định thiền”.

Trong ngoài vắng lặng thoát trần duyên.

Nước yên chiếu sáng vầng trăng tỏ.

Sóng động che mờ lẽ tự nhiên.

Xách gậy kim cang kềm ý mã,

Đem hèo giới luật đuổi tâm viên.

Rừng thiền sư tử đang xua tặc.

Chúa “Định” gom thần mật mật miên.

 

 

 

 

 

6 ) Trí Tuệ:

 

“Trí tuệ” ví như lưỡi kiếm thần,

Đoạn trừ tai chướng, dứt tham sân,

Vô minh tận diệt  ly sinh tử.

Phiền não tiêu trừ thoát khổ luân.

Biển nghiệp ba đào vùi Phật tánh.

Trần lao sóng gợn lấp tâm chân.

Hươi gươm trí tuệ trừ ma chướng,

Tánh giác chơn như chiếu sáng ngần.

 

 

                        oOo

 

 

 

 

 

KHUYÊN ĐỪNG MÊ

TỬU, SẮC, TÀI, KHÍ

 

Kiêng rượu không say giữ tánh thường,

Đừng mê hoa nguyệt chẳng tai ương

Không nên bài bạc còn gia sản.

Giận tức mà dằn họa khỏi vươn.

 

 

RƯỢU

 

“Rượu” là chất độc đứng đầu tiên,

Những kẻ say sưa, chuốc não phiền.

Quân tử rượu vào, tâm loạn lạc,

Anh hùng nghiện rượu, trí khùng điên,

Người đời vì rượu, làm mê tánh,

Kẻ đạo tu hành rượu phải kiêng,

Vậy hỡi ai ơi nên cữ rượu,

Đừng cho huân tập có chi ghiền.

 

SẮC

 

“Sắc đẹp” chôn người xuống hố sâu,

Bởi mê hoa nguyệt luống đau sầu.

Luân thường đảo lộn do nàng sắc.

Trụy lạc cũng vì sắc bủa câu

Kẻ vướng sắc rồi, ôi ! khó gỡ !

Người mà mắc nó phải âu sầu !

Vậy nên sắc đẹp kiêng nhìn ngắm

Để tránh xe luân, mắc tội đầu.

 

 

TÀI

 

“Cờ bạc” gian tham xấu nhất đời

Vào sòng hò hét gọi: trò chơi

May khi vận đỏ: vô đầy túi

Rủi lúc thời đen: tuột vốn lời

Hỷ hả vui mừng, thêm tội ác

Cau mày chửi mắng, nghiệp nào vơi

Những ai cờ bạc khuyên nên bỏ

Ngay thật làm ăn khỏi hổ đời.

 

KHÍ

 

“Giận” là ngọn lửa đốt rừng thiêng,

Cháy rụi tam tâm, khổ lụy phiền.

Quá khứ vén vun, công khó nhọc,

Vị lai mong hái, quả tròn duyên.

Sao mà hiện tại châm ngòi lửa?

Khiến phải tiêu tan khoảnh ruộng thiền !

Đã mất trí tài thêm tội nghịch

Họa vì không khéo giữ lời khuyên.

 

LỜI KHUYÊN

 

“Tửu, Sắc, Khí, Tài”, bốn điểm khuyên,

Mong sao ai nấy phải cần chuyên.

Dằn tâm quyết giữ điều răn cấm.

Vững chí nương theo lẽ thiện hiền.

Đạo quả không cầu nhưng vẫn đến.

Phật Trời chẳng khấn cũng kề bên.

Ai người hành đúng y như vậy,

Mới thật là người đủ phước duyên.

 

 

 

 

 

PHÁP

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

 

 

 

1 ) Pháp Từ

 

Lòng “Từ” lan tỏa khắp muôn phương,

Mong cả chúng sanh hưởng tận tường.

Bởi lẽ sống chung cùng tánh thể,

Vì chơn bình đẳng hiệp tình thương

Muôn loài sao nỡ đành lòng sát

Vạn vật khoan dung, chớ bạo cường

Báo ứng phân minh, không chối cãi

“Từ” là trọng nghĩa với luân thường.

 

 

 

 

 

2 )  Pháp Bi

 

“Bi” ấy là phương pháp diệu thần,

Là nguồn chơn lý giải tham sân,

Bi cầu cứu khổ cùng muôn lọai.

Bi nguyện ban vui khắp thế trần.

Bi nguyện một lòng không sát hại,

Bi là khối ái, với lòng nhân.

“Từ Bi” hai chữ gìn cho trọn

Mới thật là người đạo chánh chân.

 

 

 

 

 

 

 

3 ) Pháp Hỷ

 

“Hoan hỷ” rộng dung khắp mọi loài,

Riêng tình đồng loại cõi trần ai,

 Dắt dìu chung sống trên đường đạo,

Hướng dẫn cùng nhau dưới Phật đài.

Chí quyết nương về ngôi Tam Bảo

Nguyện cầu sinh chúng nghiệp tiêu tai,

Lòng “Từ, Bi, Hỷ”, môn vô lượng.

Tâm nguyện noi theo Đức Phật Ngài.

 

 

 

 

4 )  Pháp xả

 

“Xả” bỏ cảnh trần chẳng luyến mơ

Quy y Tam Bảo quyết tôn thờ.

Lợi danh tài sắc không còn đắm,

Vật chất xa hoa chẳng nhiễm nhơ.

Biển khổ mênh mông, hồi thị ngạn

Lên thuyền bát nhã thoát qua bờ.

Xả trần thế tục không vương vấn,

Hướng nguyện tu hành tỉnh giấc mơ.

 

                          oOo

 

 

                        Giác Lượng Tuệ Đàm Tử

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/02/2011(Xem: 10467)
Khói mây liễu mộng, ngoại trần chơi Trăng nước hoa gương, gẫm lại cười Nhân ái đề huề, sao tỏ rạng...
21/02/2011(Xem: 12487)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vời mà mùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
21/02/2011(Xem: 12124)
cánh rất mỏng chim đường bay rồi chẳng tới bởi mù sa hớt hải đuổi bên chân
19/02/2011(Xem: 17683)
Hết lòng trân quí và ghi nhớ ân đức sâu dầy của sư Sán Nhiên đã biên soạn và hiệu đính tập sách này, cũng như đã hoan hỷ cho phép Hội Thiện Đức ấn tống nhằm góp phần vào công cuộc hoằng hóa Phật pháp đem đến lợi lạc cho nhiều người. Hội Thiện Đức xin biết ơn sự ủng hộ tinh thần và tán thán sự phát tâm đóng góp tịnh tài của quý Phật tử và ân nhân cho công trình ấn tống này. Xin tri ân chị Thân Thục & anh Thân Phúc đánh máy tập sách; anh Thân Hòa trình bày sách bao gồm thiết kế bìa sách; anh Chúc Giới, anh Thiện Tánh, cùng anh Chúc Tùng cung cấp tài liệu và hình ảnh; Tâm Hân Huệ thỉnh ý sư Sán Nhiên; chị Tâm Thiện, chị Chơn Hạnh Bạch, chị Diệu Âm, Thân Hồng, cùng anh chị Lê Lộc (Lancaster, PA) phụ giúp sổ sách, liên lạc, và kêu gọi cho quỹ ấn tống.
19/02/2011(Xem: 11833)
Lá xanh cõng nắng sang mùa Phất phơ sương khói hiên chùa gọi nhau Làm thơ, hoa cỏ chụm đầu...
13/02/2011(Xem: 40693)
Vội đến, vội đi, vội nhạt nhòa Vội vàng sum họp vội chia xa. Vội ăn, vội nói rồi vội thở Vội hưởng thụ mau để vội già.
06/02/2011(Xem: 9476)
Đường của thơ là đầm đìa cát bụi Vùi nắng mưa sấm chớp bão bùng Và khơi mở dòng đời từ vô thủy...
02/02/2011(Xem: 8017)
"Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông." Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều. Người xưa vắng bóng, chỉ thấy cảnh cũ hoa đào cười trước gió đông ngày xuân. Đó cũng chính là cảnh của Thôi Hộ trong bài thơ dưới đây.
02/02/2011(Xem: 9204)
1) Đối với các Thiền Sư thời Lý-Trần, sự ứng dụng tâm thức tu hành với những giáo lý Đức Phật truyền dạy là một. Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới, Đức Phật khai thị về không gian: "Mười phương thế giới đồng nhất thể." Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật mở bày ý niệm về thời gian: "Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vi lai tâm bất khả đắc."
02/02/2011(Xem: 10075)
Sự hiện hữu đột biến phản diện của một đóa mai đã đánh lay tâm thức của người đọc một cách bất ngờ, tạo ra một mối nghi tình cho hành giả, trong hai câu song thất kết thúc của bài kệ, mà thiền sư Mãn Giác đã trao cho những người đi sau, nhân lúc cáo bệnh thị chúng của ngài, chúng vẫn còn tiếp tục chảy không biết bao nhiêu bút mực để nói về sự hiện hữu của chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]