NGUỒN THIÊNG SỬ VIỆT
Uống dòng lịch sử Năm Ngàn Năm.
Nước suối Văn Lang hiển diệu thâm,
Nhớ Tứ Thánh Nhân hồn bất tử.
Nguồn Thiêng Hồng Lạc ứng linh thần.
Việt tình truyền thống dân bất khuất.
Quốc thịnh ngàn xưa lưu vĩnh kiếp,
Tổ Tiên truyền nối rạng muôn năm.
CẢM ĐỀ
CHỬ ĐỒNG TỬ (1) *
Chử giòng “Quê Chử Xá”(2) “Cù Vân” (3)
Đồng khố che thân giữa thế trần.
Tử hiếu thức tâm tìm học đạo.
Thần trung Quốc Tổ, trợ phù dân
Bất ngờ tiền định “Tiên Dung” kết (4)
Tử hóa duyên trần biến báo thân (5)
Việt sử ngàn năm lưu Thánh Hiển.
1) Đệ nhất Tứ Thánh, hồn bất tử.
2) Làng Chử Xá.
3) Thân phụ là Chử Cù Vân.
4) Công Chú Tiên Dung kết nghĩa vợ chồng.
5) Xong phận thế trần hai Ngài đều bay về trời.
CẢM ĐỀ
PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG *
Phù trợ Vua Hùng, Thiên Sứ lâm.
Đổng làng Gióng, thuộc huyện Gia Lâm.
Thiên sai cậu bé nhà Trời xuống,
Vương Thánh đại hùng cứu nước Nam.
Thượng đức phi thường, vang ngựa sắt.
Đẳng công khí phách giặc Ân khâm.
Tôn thờ nghĩa khí phù dân tộc,
Thần hiển linh mầu, hộ Việt Nam.
* Đệ Nhị Tứ Thánh , hồn bất tử.
CẢM ĐỀ
ĐỨC THÁNH TẢN VIÊN *
Đức tỏa ngàn đời, Đức hiếu sinh,
Thánh Vương Sơn Địa, hiển u linh,
Tản bang hồng phúc dân Nam Việt
Viên phép thần thông độ nước mình.
Thượng giới cỡi rồng thân biến hóa.
Đẳng trần gian phụng cứu nhân sinh.
Tôn thờ Thánh Đức lừng danh hiển,
Thần thứ đệ tam, vị Tứ Linh.
- Đệ Tam Tứ Thánh, hồn bất tử
CẢM ĐỀ
VÂN HƯƠNG THÁNH MẪU *
Vân Hồng Thiên giáng thế nhân y,
Hương tỏa ngạt ngào nhạc pháp thi,
Thánh thoát đào hoa so “Tố Nữ”.
Mẫu Vương Tiên Đức sánh sao bì.
Tiên Nương hiếu đạo tròn cơ cách,
Chúa tiếp hóa dân sứ mạng trì.
Hiển hách hồi Thiên không mộ chí,
Linh Tôn Thần Thượng sắc phong Y.
- Đệ Tứ Thánh Linh, hồn bất tử.
oOo
KÍNH BẬC CAO ĐỨC
Giác dòng họ Thích Giác nhân sinh.
Lượng tính hiền nhu Hộ lấy mình,
Kính bậc cao tăng Thích đức trọng,
Hòa trong tứ chúng Thượng tôn vinh,
Thượng tình trang trải Hòa hài khắp,
Thích nghĩa bao dung kính bất khinh,
Hộ đạo thương đời Lượng phụng hiến,
Giác nguồn chánh pháp Giác tâm kinh.
TÌNH TỘC QUÊ HƯƠNG
Tặng lời tán thán quý đồng hương,
Ban phát nguồn lòng đến khắp phương,
Tổ quốc đang lâm cơn đại nạn.
Chức năng người Việt phải lên đường.
Hội toàn dân tộc trong ngoài nước.
Thảo luận cùng nhau để tỏ tường.
Nhân đức chúng ta cần kiến tạo.
Quyền người tộc Việt xứng nêu gương.
oOo
NGƯỜI HÙNG BẤT KHUẤT
Thiếu thời cho đến hết đời binh,
Tướng sĩ chí nhân trọn nghĩa tình,
Nguyễn tộc hùng anh nêu khí phách.
Khoa dòng bất khuất rạng uy danh.
Quân sử khắc ghi bậc hiến mình.
Đoàn ngũ thề không đầu hàng giặc,
Bốn vùng chiến thuật trọng chân linh.
CHÍ KIÊU HÙNG
Trần tộc kiêu hùng nối gót xưa.
Văn ghi tướng sĩ chí dư thừa.
Hai thời gánh vác nguyền không nhỏ.
Tư thế đảm đang phận chẳng vừa.
Lệnh chỉ ba quân lòng kính phục,
Sư huy phong vũ dạ đều ưa.
Đoàn người sát đát trừ ma cộng,
Bảy Bộ Binh, quân lực có thừa.
TRỌN LÒNG YÊU NƯỚC
Tưởng niệm muôn đời bậc chí nhân.
Tướng hùng dân tộc đấng danh thần.
Lê Nguyên Vỹ trọn lòng yêu nước.
Tư lệnh sư đòan quyết xả thân.
Tử tiết gương treo người sĩ khí.
Hy sinh danh rạng kẻ vì dân.
Tinh thần bất khuất lưu trang sử,
Giặc bắt không hàng, “tự xử” phân.
KẺ HÙNG ANH
Truy nguyên chí khí kẻ hùng anh.
Niệm tưởng chân linh bậc sĩ hành.
Thiếu tướng quân khu II đất Việt.
Phạm Văn Phú trọn ý trung thành.
Tư trào suy thóai thời cơ mạt.
Lệnh bất phục tùng “tự vẫn” vinh.
Quân ngũ bảo tòan không khuất phục
Đoàn Hai uy vũ mãi lưu danh.
TỬ TRÒN SỨ MẠNG
Truy niệm người hùng Việt tộc ta,
Lê văn, sĩ khí tráng sơn hà,
Hưng danh “tử tiết” thơm nòi giống.
Thiếu tướng sinh thời bảo quốc gia.
Tư lệnh quân đoàn, quân khu IV.
Quyết không hàng giặc lúc cơ sa.
Tử tròn sứ mạng chân linh tướng,
Gương rạng muôn đời, tiếng ngợi ca.
oOo
HÀNH LỤC ĐỘ
1 ) Bố Thí:
“Bố thí” tùy theo nguyện lực mình,
Trong ba phưong pháp giúp nhân sinh.
Một là “Tài thí” như tiền của.
“Pháp thí” thứ hai mở đạo tình.
Ba là thực hiện tâm “Vô Úy”.
Trải lòng thực hiện lẽ tồn sinh.
Vì chưng “Bố thí” trừ tham lẫn,
Gieo giống Bồ đề độ chúng sinh.
2 ) Trì Giới:
Quy luật Phật truyền tự bấy lâu
Là môn diệu dược khắp năm châu
Giúp đời “giới luật” phưong châm báu
Độ thế “tam quy” pháp nhiệm mầu
Ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng đã thọ
Giới điều Phật dạy học thâm sâu
Phát tâm tu niệm chuyên trì giữ
Mới dứt tử sanh, thoát nghiệp sầu.
3 ) Nhẫn nhục:
“Nhẫn nhục” là giới đứng đầu tiên.
Nhẫn được tiêu oan dứt não phiền.
Người đã nương về ngôi chánh giác.
Thực hành pháp nhẫn đúng chân truyền,
Hơn thua phải quấy, thêm oan trái,
Khôn dại đua tranh, tạo nghiệp duyên,
Lửa giận đốt thiêu rừng công đức.
Theo lời Phật dạy: “Nhẫn” cần chuyên.
4 ) Tinh Tấn:
“Tinh tấn” là môn thuốc diệu huyền.
Chữa lành bệnh nhác tập hành siêng.
Muốn cho có quả cần vun tưới,
Đạo cũng do ta gắng tập rèn.
Nước chảy lâu ngày dần lở núi.
Cọ cây lấy lửa phải cho chuyên.
Tâm thành chí nguyện vun nền đạo,
“Tinh tấn” đưa mình đến Phật Tiên.
5 ) Thiền Định:
Các pháp gồm thâu chước “định thiền”.
Trong ngoài vắng lặng thoát trần duyên.
Nước yên chiếu sáng vầng trăng tỏ.
Sóng động che mờ lẽ tự nhiên.
Xách gậy kim cang kềm ý mã,
Đem hèo giới luật đuổi tâm viên.
Rừng thiền sư tử đang xua tặc.
Chúa “Định” gom thần mật mật miên.
6 ) Trí Tuệ:
“Trí tuệ” ví như lưỡi kiếm thần,
Đoạn trừ tai chướng, dứt tham sân,
Vô minh tận diệt ly sinh tử.
Phiền não tiêu trừ thoát khổ luân.
Biển nghiệp ba đào vùi Phật tánh.
Trần lao sóng gợn lấp tâm chân.
Hươi gươm trí tuệ trừ ma chướng,
Tánh giác chơn như chiếu sáng ngần.
oOo
KHUYÊN ĐỪNG MÊ
TỬU, SẮC, TÀI, KHÍ
Kiêng rượu không say giữ tánh thường,
Đừng mê hoa nguyệt chẳng tai ương
Không nên bài bạc còn gia sản.
Giận tức mà dằn họa khỏi vươn.
RƯỢU
“Rượu” là chất độc đứng đầu tiên,
Những kẻ say sưa, chuốc não phiền.
Quân tử rượu vào, tâm loạn lạc,
Anh hùng nghiện rượu, trí khùng điên,
Người đời vì rượu, làm mê tánh,
Kẻ đạo tu hành rượu phải kiêng,
Vậy hỡi ai ơi nên cữ rượu,
Đừng cho huân tập có chi ghiền.
SẮC
“Sắc đẹp” chôn người xuống hố sâu,
Bởi mê hoa nguyệt luống đau sầu.
Luân thường đảo lộn do nàng sắc.
Trụy lạc cũng vì sắc bủa câu
Kẻ vướng sắc rồi, ôi ! khó gỡ !
Người mà mắc nó phải âu sầu !
Vậy nên sắc đẹp kiêng nhìn ngắm
Để tránh xe luân, mắc tội đầu.
TÀI
“Cờ bạc” gian tham xấu nhất đời
Vào sòng hò hét gọi: trò chơi
May khi vận đỏ: vô đầy túi
Rủi lúc thời đen: tuột vốn lời
Hỷ hả vui mừng, thêm tội ác
Cau mày chửi mắng, nghiệp nào vơi
Những ai cờ bạc khuyên nên bỏ
Ngay thật làm ăn khỏi hổ đời.
KHÍ
“Giận” là ngọn lửa đốt rừng thiêng,
Cháy rụi tam tâm, khổ lụy phiền.
Quá khứ vén vun, công khó nhọc,
Vị lai mong hái, quả tròn duyên.
Sao mà hiện tại châm ngòi lửa?
Khiến phải tiêu tan khoảnh ruộng thiền !
Đã mất trí tài thêm tội nghịch
Họa vì không khéo giữ lời khuyên.
LỜI KHUYÊN
“Tửu, Sắc, Khí, Tài”, bốn điểm khuyên,
Mong sao ai nấy phải cần chuyên.
Dằn tâm quyết giữ điều răn cấm.
Vững chí nương theo lẽ thiện hiền.
Đạo quả không cầu nhưng vẫn đến.
Phật Trời chẳng khấn cũng kề bên.
Ai người hành đúng y như vậy,
Mới thật là người đủ phước duyên.
PHÁP
TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
1 ) Pháp Từ
Lòng “Từ” lan tỏa khắp muôn phương,
Mong cả chúng sanh hưởng tận tường.
Bởi lẽ sống chung cùng tánh thể,
Vì chơn bình đẳng hiệp tình thương
Muôn loài sao nỡ đành lòng sát
Vạn vật khoan dung, chớ bạo cường
Báo ứng phân minh, không chối cãi
“Từ” là trọng nghĩa với luân thường.
2 ) Pháp Bi
“Bi” ấy là phương pháp diệu thần,
Là nguồn chơn lý giải tham sân,
Bi cầu cứu khổ cùng muôn lọai.
Bi nguyện ban vui khắp thế trần.
Bi nguyện một lòng không sát hại,
Bi là khối ái, với lòng nhân.
“Từ Bi” hai chữ gìn cho trọn
Mới thật là người đạo chánh chân.
3 ) Pháp Hỷ
“Hoan hỷ” rộng dung khắp mọi loài,
Riêng tình đồng loại cõi trần ai,
Dắt dìu chung sống trên đường đạo,
Hướng dẫn cùng nhau dưới Phật đài.
Chí quyết nương về ngôi Tam Bảo
Nguyện cầu sinh chúng nghiệp tiêu tai,
Lòng “Từ, Bi, Hỷ”, môn vô lượng.
Tâm nguyện noi theo Đức Phật Ngài.
4 ) Pháp xả
“Xả” bỏ cảnh trần chẳng luyến mơ
Quy y Tam Bảo quyết tôn thờ.
Lợi danh tài sắc không còn đắm,
Vật chất xa hoa chẳng nhiễm nhơ.
Biển khổ mênh mông, hồi thị ngạn
Lên thuyền bát nhã thoát qua bờ.
Xả trần thế tục không vương vấn,
Hướng nguyện tu hành tỉnh giấc mơ.
oOo
Giác Lượng Tuệ Đàm Tử