Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một Vài Nét Chấm Phá Qua Những Bài Thơ Của Ht. Thích Trí Thu

10/03/201004:35(Xem: 12079)
Một Vài Nét Chấm Phá Qua Những Bài Thơ Của Ht. Thích Trí Thu

thichtrithu-tuongniem-kyyeu

MỘT VÀINÉT CHẤM PHÁ
QUA NHỮNG BÀITHƠ CỦA HT. THÍCH TRÍ THỦ
ĐạiLãn

Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Hòa Thượng thìphần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịchthuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, còn ít hơnnữa đối với cả một đời Ngài đã bỏ ra phục vụ đạopháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhaunhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài. Tuy chúngnói lên rất ít ỏi, nhưng không vì thế mà chúng không manglại cho chúng ta một cái nhìn chính xác và rõ ràng hơn vềcuộc đời của Ngài và, cũng từ đây chúng ta mới thấyrõ được chân dung của một bậc Thầy vĩ đại qua chí nguyệnkiên cường của Ngài trong việc “Thượng cầu Phật đạo,hạ hóa chúng sanh.” một cách trọn vẹn như trong bài :

Đốtnén tâm hương trước Phật đài
PhổHiền hạnh cả nguyện nào sai
Hiệnthân cát bụi vào muôn nẻo
Cứubệnh trầm kha khắp mọi nhà.”
(tụngKinh Hoa Nghiêm cảm tác)

Chínhhạnh nguyện của Ngài Phổ Hiền Bồ-tát đã chắp cánh choNgài bay lên cao hơn và, hình như Ngài đã thật sự khế hợpvới pháp môn này. Qua bốn câu thơ như là vừa tán dươnghạnh cả của Ngài Phổ Hiền và cũng như là vừa lập nguyệncho chính mình; những tương ưng ở đây thật tuyệt vời chokhắp không gian vô cùng và thời gian vô tận, nó nói lên chínguyện bền chắc lâu dài qua hai đức trí tuệ và từ bi đượcthể hiện từ hạnh nguyện. Nhưng trước khi Ngài muốn thểhiện hạnh nguyện này Ngài đã phải trải qua những năm thánglau sạch bình bát trong chức năng nối dòng nghiệp Thánh khôngbiết là bao lâu, Ngài đã thật sự không còn nhớ nữa:

Tàokhê nước chảy về đông
Bìnhbát nối dõi lâu không nhớ ngày
Trăngthiền nào có khác xưa
ViênThành ấn chứng đã dày công tu.”
(NướcTào Khê)

Nhữnghuân tập thiền đã đưa đến sự bùng vỡ trong tu tập “Trăngthiền nào có khác xưa” đó chính là cái nhân để từ đóÔn cất cánh bay xa, đó cũng chính là những nổ lực ban đầutrong việc thượng cầu Phật đạo của Ngài và, chúng luônđược thể hiện qua cuộc sống sau này được thể hiệntừ cuộc sống trong hạ hóa chúng sanh không bao giờ ngừngnghỉ qua việc vừa giữ tâm mình luôn luôn trong sáng cùngđem trí tuệ đó sáng soi cho mọi người:

Nộihạc chưa ngừng sân Lão thọ
Ngànmây còn vướng ngõ Hoàng Mai
Nonxanh, pháp nhãn hoa Linh Thứu
Nướcbiếc, thiền tâm bóng Thiện Tài.”
(cảmtác xuân Canh Tuất)

Trướchết, trong hiện tại tấm lòng của Ngài đang được nhữnghình ảnh và các biểu tượng như nội hạc, ngàn mây, nonxanh, nước biếc và cây sân Lão, ngõ Hoàng Mai, hoa Linh Thứu,bóng Thiện Tài đang nuôi dưỡng và làm lớn mạnh hạt giốngan lành giải thoát trong cuộc sống của chính Ngài, đó chínhlà cửa ngõ bước vào Không tâm của ánh sáng trăng thiềnnào khác xa xưa và, sau nữa là ánh sáng đó Ngài vẫn giữmãi nó không bao giờ đánh mất:

Đốtnén hương nguyền thề sám hối
Trướcsau giữ trọn chữ Không Tâm.”
(XuânQuý Mão cảm tác)

Trongphương tiện tương đối để chúng ta bước vào cửaKhông của không cửa nhà Tổ thì đương nhiên những hìnhảnh và những biểu tượng đó cần phải có để chúng talấy làm phương tiện làm nhân cho những bước đi giải thoátkế tiếp, do đó chúng ta rất cần có những phương tiệnđó. Chính vì chúng là những phương tiện tạm thời cầnthiết, nên chúng chính là những nhân tố không thể khôngcó cho chúng ta trong lúc thực hiện hạnh nguyện thượng cầuhạ hóa; nếu không có chúng chúng ta sẽ bị kẹt vào trongthiên chấp của sắc không và, luôn luôn bị chúng trói buộcvào tà kiến đảo điên thị phi khó thoát ra được, như vậychúng ta cầm chắc sẽ bị trôi lăn mãi trong đường sanh tửluân hồi sáu cõi. Ở đây nếu ai ngộ ra được cảnh giớisắc không không tịch, không tự tính này thì sẽ nhận rađược Bát-nhã tính không trong suốt của không tâm và cũngsẽ nhận ra được việc làm của Ôn đối với đất nướcvà dân tộc này:

Tâmsự sắc không ai có biết?
Kìagương Bát-nhã vốn trong ngời.”
(XuânMậu Thân)

Ởđây, từ không tâm của phương tiện đến Không Tâm củacứu cánh, nó cũng giống như sự khác biệt giữa chữ Phậtcủa mê và chữ Phật của ngộ vậy, có nghĩa là khi mê gọilà chúng sanh khi ngộ gọi là Phật thế thôi. Do đó cảnhgiới của sắc không chúng ta cần phải thông suốt, nếu khôngthông suốt ắt sẽ bị chúng làm chướng ngại trong ý niệm“có-không” và, như vậy không đời nào chúng ta vượt quakhỏi sinh tử luân hồi được. Ở đây Hòa Thượng sau khichính tự thân Ôn đã tỏ ngộ được thể cảnh giới sắckhông cùng những diệu dụng của nó như thế nào rồi, thìsau đó Ngài liền nghĩ ngay đến sứ mạng hạ hóa chúng sinhcủa minh đói với tha nhân như thế nào?

Sứmạng làm tròn thân đệ tử
Chiếuđèn diệu huệ giữa đêm sâu.”
(cảmniệm Phật thành đạo)

Sứmạng của các hàng đệ từ đức Đạo sư là trên tìm mọicách để chứng đạt được đạo vô thượng Bồ-đề, dướihoàn thành sứ mệnh hóa độ mọi loài chúng sanh để họđược như mình; đây là một sứ mạng cao cả cho chính tựthân và tha nhân. Khi hai sứ mệnh này hoàn thành trọn vẹnthì lúc đó chúng ta mới hoàn toàn đạt được an vui giảithoát vĩnh viễn. Đó cũng chính là tâm sự gần xa của Ônkhi nhìn hòn non bộ bản đồ Việt Nam mà chạnh nghĩ đếnhiện tình đất nước dân tộc và đạo pháp:

Dùcho Nam Bắc đôi đường,
Đốtlò hương nguyện bốn phương một nhà;
Sớmhôm hướng nẻo Phật đà,
“Sắc,Không” tâm sự đường xa nỗi gần.”
(Cảmđề Non bộ bản đồ Việt Nam)

Tâmsự đường xa nỗi gần của Ôn đối với tha nhân phát xuấttừ lòng từ bi được phát khởi từ trí tuệ không tâm Bát-nhãmà Ngài đã tìm lại được nơi chính mình qua diệu huệ củahạnh nguyện thượng cầu hạ hóa theo gương Bồ-tát PhổHiền. Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngạitrên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng vớisự quyết tâm của mình trong tự lợi và lợi tha Ôn vẫnbước đi không một chút do dự, miễn sao bước đi của mìnhvừa lợi mình lợi cho người thì Ngài không ngại:

Dùphải chịu muôn ngàn gian khổ
Conhết lòng vì đạo hy sinh
Nươngtừ quang tìm đến bảo thành
Đặngtự giác giác tha viên mãn.”
(Quỳtrước điện)

Conđường đi đến tự giác giác tha và để hoàn thành giáchành viên mãn thì, ngoài vấn đề hy sinh chịu gian khó quasự thể hiện đức tính từ bi còn phải có sự quyết tâmvà nổ lực hết mình trong tinh tấn mới có thể hoàn thànhđược hạnh nguyện của chúng ta được, nếu không thì sẽbỏ dở giữa đường, đó chính là con đường đưa đếngiác hành viên mãn:

Hướngvề muôn đức từ bi
Đườnglên giác ngạn quyết đi tận cùng.”
(hướngvề)

VàÔn luôn luôn nuôi dưỡng hạnh nguyện này qua những sách tấnchính mình thường ngày trong cuộc sống. Những chất liệunuôi dưỡng cho chính bản tâm Ngài mang chất liệu từ đứctin từ bi kiên cố vào chân lý mang đậm nét trí tuệ, cộngthêm những nổ lực tinh tiến tự nguyện của tự thân dẫnđến mọi sự an lạc cho chính Ngài trong tu tập:

Mộtlòng kính lạy Phật đả
Ngànđời con nguyện ở nhà Như lai
Conhằng bận áo Như lai
Conngồi pháp tọa Như lai muôn đời.”
(tụngkinh Pháp Hoa cảm tác)

Trítuệ và từ bi là đôi cánh được nối thêm để Hòa thượngvượt qua biển khổ sinh tử và hoàn thành sự nghiệp giảithoát cho chính Ngài, vì vậy chúng luôn luôn hiện hữu trongcuộc sống của chính Ngài trong việc thực hành hạnh nguyệnPhổ Hiền của minh. Và cũng từ việc thực hiện hạnh nguyệncủa mình đối với tự thân và tha nhân qua chí nguyện thượngcầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh trong chức năng có đượccủa mình đối với dân tộc và đạo pháp mà Ngài đã chịukhông biết bao nhiêu là cay đắng khó khăn thậm chí đếntai tiếng nữa; nhưng Ngài với tâm không của mình vì tựlợi và lợi tha vì dân tộc và đạo pháp mà Ngài cam tâmgánh chịu mọi khổ đau và tai tiếng đó:

Cayđắng nếm dư đầu chót lưỡi
Khenchê nghe đủ giữa vành tai.”
(XuânMậu Thân)

Sựchấp nhận của Ngài qua những phản ứng chung quanh đối vớiNgài không hẳn chỉ là những tiếng bất lợi mà còn có nhữnglời khen ngợi khuyến khích nữa; nhưng giờ đây những khenchê, buồn vui đối với ngài không còn là vấn đề để đặtra và xét lại trong phân biệt nữa, mà là một chấp nhậnvới tâm không, do đó Ngài luôn lưôn dùng nụ cười thay thếcho những phản ứng của Ngài về những dư luận chung quanh:

“Sáubảy xuân thu giữa cuộc đới
Buồnvui mừng giận khéo trêu ngươi
Thânnày đã hứa cùng non nước
Vinhnhục khen chê chỉ mỉm cười.”
(Cảmtác sinh nhật 67 tuổi)

Nụcưới của không tâm luôn thể hiện, chỉ có mình biết mìnhmà thôi, dù thế nhân có hiểu mình hay không hiểu mình cũngmặc, vì chính Ngài mới biết được việc làm của mình vàvới không tâm thì sẽ không tạo ra tác nhân, mà đã khôngtạo ra tác nhân thì làm gì có thọ quả thế thôi. Với Khôngtâm đối với tự thân và đối với mọi người, thật sựgiờ này có lẽ không gì có thể trói buộc được bướcđi của Ngài, Ngài sống với duyên đến, theo với duyên đi,cho dù là bất cứ hoàn cảnh nào đi nữa; thì việc làm đúngnghĩa tùy duyên nên trở thành tự tại.

Xuânvề Mậu Ngọ tuổi lai hy
Chẳngdám khoe chi chẳng muốn gì
Bảoở thì ừ hoan hỷ ở
Kêuđi âu cứ tự nhiên đi
Cảnhkhô lá úa mai nhưng nụ
Mâycuốn sương tan đá vẫn lỳ
Vôtận không thời vô tân ý
Thịchưa từng bận ngại gì phi.”

Đóchính là cách sống đúng của những người con Phật theo đúngnghĩa chỉ dạy của bậc Đạo sư trong sự nghiệp hoằng phápđộ sinh của Ngài. Lúc này mọi chướng ngại nhau trong cuộcsống sẽ được dung thông tất cả trong thời-không vô tận.Ở đây không còn bất cứ một ý niệm nào sai biệt chốngtrái nhau hết cho dù đó là thị hay là phi trên mặt hiệntượng tương đối của sự tướng và, thật sự đây chínhlà cảnh giới giải thoát hiện tiền của những người conhọc Phật thực hành theo Phật.

Quanhững vần thơ chúng tôi trích ra từ tập I trong ba tập củaTrí Thủ toàn tập, cho chúng ta một cái nhìn đúng hơn vềNgài và, cho chúng ta thấy được cái vĩ đại của Ngài trongchí nguyện thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh, cùngsự thể hiện nếp sông tự tại qua cuộc sống. Chúng ta nhữngkẻ hậu bối đi sau chỉ ghi lại những gì có được mộtcách ít ỏi qua những bài thơ của Ngài để lại, đối vớitoàn bộ những gì Ngài đã cống hiến cho Phật Giáo ViệtNam và dân tộc này qua sự nghiệp giáo dục và văn hóa củaNgài như lược sử và những cống hiến được ghi lại quaba tập Trí Thủ Toàn tập đã ghi lại để chúng ta có thểnhận thức đúng hơn về Ngài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/10/2015(Xem: 15162)
(1) Con nguyện luôn yêu thương tất cả chúng sanh Bằng cách xem họ quý báu Hơn ngọc như ý Để thành tựu mục tiêu tối thượng.
06/10/2015(Xem: 15567)
Con xin đảnh lễ tâm đại bi. Con xin đảnh lễ chư đạo sư cao cả. Con xin đảnh lễ chư Bổn Tôn, Là chư vị ban nguồn cảm hứng về lòng tín tâm và sùng mộ.
05/10/2015(Xem: 9655)
Lại thêm thu nửa trở về, Nghĩ thân đất khách mà tê tái buồn. Nhớ về quê mẹ cội nguồn, Khi nhìn đôi cánh lá vàng nhẹ bay, Nhón chân dạo bước vườn ngoài, Nghiêng mình nhặt lá rụng rơi bên thềm. Sắp từng chiếc lá gọi tên, Thì thầm tên lá theo miền thế gian. Cảnh thu dễ gợi u buồn, Hỏi sao tâm để rộn ràng triền miên. Nhắn lòng ta ráng tịnh yên, Đem sao cho được chữ Thiền vào Thu !
03/10/2015(Xem: 19271)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
02/10/2015(Xem: 12296)
Bài thơ vô cùng súc động Do not stand at my grave and weep (Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ) của Mary Elizabeth Frye (1905-2004) đã được dịch ra không biết bao nhiều thứ tiếng và đã được đọc lên, phổ nhạc, trình bầy không biết bao nhiêu lần bởi các ca sỹ trứ danh. Mary Elizabeth Frye là một bà nội trợ người Mỹ, làm nghề bán hoa. Bà được cả thế giới biết tên vì một lý do độc nhất : bà là tác giả bài thơ « Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ », được viết vào năm 1932. Mary Elizabeth sinh ra ở Dayton, Ohio. Mới ba tuổi đã mồ côi. Sau đến ở Baltimore, Maryland. Năm 27 tuổi lập gia đình với Claud Frye, ông làm nghề buôn bán quần áo. Bài thơ làm bà sau này trở nên nổi tiếng được viết trên một chiếc túi mua sắm, lấy cảm hứng từ chuyện một cô gái trẻ tuổi, Margaret Schwarzkopf, ở với gia đình Frye, đã không thể đến thăm mẹ đang hấp hối ở Đức, vì cô gái là dân Do Thái. Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 12 dòng, không có chủ đề. Frye thấy bạn bè thích nên đã sao nhiều bản và lưu hành, nhưng chưa bao giờ
29/09/2015(Xem: 8997)
Dáng ngồi như núi như non Trăm năm sương gió vẫn còn uy nghiêm Trên cao sừng sững bóng hiền Mưa sa nắng chiếu địa thiên lưu tình Giữa đời lặng lặng thinh thinh Tỏa hương đạo hạnh hậu sinh hồi đầu Tử tôn gánh đội ân sâu Chuông ngân trưa tối, kinh cầu sớm khuya Bước chân hoằng độ đi, về Vườn ươm tỏa bóng bồ đề mát tươi Như non như núi không dời Đạo thành như ý, dáng ngồi thiên thu.
27/09/2015(Xem: 10301)
Nhìn lá rơi VÔ THƯỜNG luôn biến hoại Thân xác nầy cũng duyên hợp tử sanh Vũ trụ kia do tứ đại hợp thành Đâu còn mãi mà thâu gom chấp thủ !
23/09/2015(Xem: 8224)
Em quỳ rạng rỡ nét vui Như sen một đóa vừa ngoi khỏi bùn Chấp tay tâm sáng diệu thường Tàm quý hướng thiện giữa đường tôi qua... Em quỳ thanh khiết ngọc ngà Nguyện xin bất tịnh nhạt nhòa phàm thân Chấp tay tuệ giác bừng tâm Nẻo phù hoa ấy lặng câm tôi nh
23/09/2015(Xem: 9486)
Từ cao sơn dõi mắt nhìn Xuống non ra biển, một miền thùy dương Hồng trần mãi nhịp bi thương Lao xao tất bật rộn đường mưu sinh Lăng xăng đấu đá tranh giành Thất tình lục dục, trần căn dập dìu... Vui nhất thời chẳng bao nhiêu Khổ triền miên khổ vẫn nhiều khóc than Trời xanh, nắng đẹp, cát vàng Phố xinh, nhà lớn, cao sang sắc hình
09/09/2015(Xem: 8691)
Bé nằm ngủ trên cát Êm ả như nôi hồng Xoải tay nghe gió hát Sóng vỗ bờ mênh mông …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]