Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vườn trăng lục bát.

28/06/201313:48(Xem: 7039)
Vườn trăng lục bát.

 

VƯỜN TRĂNG LỤC BÁT

Phổ Đồng

 

*MỜI NHAU MỘT LẦN

Vô thấy Phật

ra thấy mình

Theo nhau triền kiếp

mà thành quên nhau

Bây giờ

đã tỏ mặt nhau

Chén trà sen ướp

mời nhau một lần.

*VƯỜN TRĂNG

Nghìn năm

mây trắng sa mù

Bờ trong bờ đục

ngày ru bên thềm

Vườn trăng

sương đọng hai miền

Quỳnh hương gió thỏang

ngòai hiên chợt cười.

*NGUYỆT ĐỌNG

Sông trăng

rớt giọt bụi hồng

Trôi thây về xứ

biển không sương mờ

Lênh đênh

quên cả bến bờ

Ngờ đâu nguyệt đọng

bên bờ kinh thơ.

*THẤY HÌNH

Hiên trăng

chén nguyệt trà hoa

Mời người ở lại

bụi xa phố phường

Nơi đây

núi vắng mờ sương

Soi người dưới nguyệt

ảnh vương thấy hình.

*VÀI BA GIỌT BUỒN

Xe lăn

cuốn bụi vô thường

Vết loan bóng ngã

cuối đường người qua

Nhạt nhòa

ký ức gần xa

Vô tình rớt lại

vài ba giọt buồn.

*HƯƠNG THỪA

Thềm trăng

trầm thỏang hương thừa

Áo mây ươm khói

mấy mùa còn vương

Dưới trăng

loan bóng vô thường

Ra đi còn để

dội trong mây mờ.

*HOA NỞ

Hoa mai vàng

chén trà xanh

Thấy ta tiền kiếp

lội quanh biển trầm

Uống đi từng giọt

muộn phiền

Sáng ra hoa nở

dưới triền mây bay.

*MANG ĐI

Rừng thu

lá khép hong vàng

Tuổi thơ chiều xuống

ngỡ ngàng thời gian

Người từ

hạt bụi sang ngang

Điểm trang đâu khỏi

vô thường mang đi!

*ĐỂ LẠI

Vô tình

trong tách trà xanh

Thấy ta chết đuối

trên cành treo nghiêng

Tiễn ta

chim hót vô phiền

Âm thinh để lại

rớt trong sa mù.

*THẢ BAY

Đất khô

cày ải trâu buồn

Chủ nông cơ cực

ai buồn hơn ai?

Thôi đành

cộng nghiệp trả vay

Từ tay phiền muộn

thả bay luân hồi.

*XÉ TAN

Trúc xanh

âm hưởng đá hờn

Từ sinh qua tử

hỏi, còn vọng vang

Nhánh ngờ

chạm đúng cơ mang

Rầm trong tiếng sấm

xé tan sương mờ.

*ĐÁNH RỚT

Lan khoe

hương sắc vô thường

Người khoe ngã ái

kết vương muôn đời

Chút tình

hương sắc đổi dời

vô tình đánh rớt

bên đồi mây bay.

*XA BAY

Ôm trăng

đánh giấc ngủ vùi

Mộng non thế kỷ

bùi ngùi trang kinh

Giật mình

trăng vỡ lung linh

Thấy ta tiền kiếp

mộng mình xa bay.

*BỤI RƠI

Thông reo

chim hót

ve đàn

Nốt trầm lặng xuống

nốt thăng lan dần

Gió say

ngủ muộn trên ngàn

Trường ca bản thể

tơ đồng bụi rơi.

*NHÂN QUẢ

Trăm năm

trên cõi ta bà

Nghìn năm trong cõi

hằng sa đất trời

Người tạo tác

kẻ nợ đời

Chạy đâu cho khỏi

quả đòi theo sau?

MƯỜI BÀI

THƠ CHĂN TRÂU

1/ TÌM TRÂU

Lên non

xuống suối mây chiều

Rừng ươm ráng đỏ

đìu hiu mịt mùng

Đường mòn

thăm thẳm rừng phong

Dạ mòn sức kiệt,

dấu trong sương mù.

2/ THẤY DẤU

Ráng hồng

mở mắt bình minh

Ven rừng mé cỏ

hiện hình dấu chân

Cỏ vừa rớt

giọt phù vân

Chạy đâu cho khỏi

bụi trần dấu in!

3/ THẤY TRÂU

Soi hình

bóng ngã bờ xanh

Cỏ non nhơi lại

dưới cành liễu buông

Rõ ràng

bóng dáng đầu truông

Sừng kia mũi nọ

cuối truông hiện bày.

4/ ĐƯỢC TRÂU

Được trâu

công sức mỏi mòn

Lại còn trừ tánh

ngông cuồng thói quen

Dắt lên

gò cạn thử quên

Nước mây mời gọi

buông quen ruộng người.

5/ CHĂN TRÂU

Đem giây

xỏ mũi dắt về

Sợ quen cát bụi

roi kề một bên

Muốn cho

trâu được tánh thuần

Giữ ngăn quen thói

không cần người chăn.

6/ CỠI TRÂU VỀ NHÀ

Chiều tà

ráng đỏ chân mây

Lưng trâu tiếng sáo

gió lay đường về

Nhịp vang

âm hưởng tứ bề

Cộng thông không ý

ai nghề tri âm?!

7/ TRÂU MẤT

NGƯỜI CÒN

Đường xa

thoắt đã về nhà

Buông giây trâu mất

vào ra một mình

Ráng chiều

thoi thốp bình minh

Roi thừng ném hết

lều tranh cho rồi.

8/ NGƯỜI TRÂU

ĐỀU MẤT

Cội nguồn

lặng lẽ trời chung

Non cao tuyết trắng

không trung mây lành

Người, trâu, roi vọt

giờ thành

Dung thông mất dấu

nên đành mất tên.

9/ VỀ LẠI

CỘI NGUỒN

Cội nguồn

nào nhắc gót chân

Ở đâu cũng hiện

trong ngần nhất như

Trong không thiếu

ngoài không dư

Tùy duyên hoa thắm

sương cười chơi vơi.

10/ THỎNG TAY

VÀO CHỢ

Duyên tùy

sấn bước chợ đời

Trong không có ý

thỏng tay không ngòai

Gặp nhau Phật thánh

quên lời

Mù đui câm điếc

mở lời tây phương.

---o0o---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/10/2015(Xem: 6319)
Có người khách hỏi lão hòa thượng: Pháp sư, con muốn hỏi ngài một vấn đề hơi bất kính một chút có được không ạ? Lão hòa thượng: Xin ông cứ nói! Người khách: Lúc ở nơi dân chúng đông đúc thì ngài ăn chay, vậy khi ở một mình trong phòng ngài có ăn thịt không? Lão hòa thượng hỏi người khách: Ông tự lái xe tới đây phải không? Người khách trả lời: Vâng, đúng ạ! Lão hòa thượng: Khi lái xe cần thắt dây an toàn, xin hỏi ông là ông thắt vì sự an toàn của bản thân hay vì cảnh sát? Nếu như vì bản thân mình thì có hay không có cảnh sát ông sẽ vẫn đều thắt thôi. Người khách: A, Con hiểu rồi!
08/10/2015(Xem: 11261)
Khi chim còn sống trên đời Chim ăn kiến nhỏ thấy thời khó chi, Nhưng khi chim bị chết đi Kiến thời ăn nó có gì khó đâu.
06/10/2015(Xem: 11680)
(1) Con nguyện luôn yêu thương tất cả chúng sanh Bằng cách xem họ quý báu Hơn ngọc như ý Để thành tựu mục tiêu tối thượng.
06/10/2015(Xem: 11112)
Con xin đảnh lễ tâm đại bi. Con xin đảnh lễ chư đạo sư cao cả. Con xin đảnh lễ chư Bổn Tôn, Là chư vị ban nguồn cảm hứng về lòng tín tâm và sùng mộ.
05/10/2015(Xem: 7490)
Lại thêm thu nửa trở về, Nghĩ thân đất khách mà tê tái buồn. Nhớ về quê mẹ cội nguồn, Khi nhìn đôi cánh lá vàng nhẹ bay, Nhón chân dạo bước vườn ngoài, Nghiêng mình nhặt lá rụng rơi bên thềm. Sắp từng chiếc lá gọi tên, Thì thầm tên lá theo miền thế gian. Cảnh thu dễ gợi u buồn, Hỏi sao tâm để rộn ràng triền miên. Nhắn lòng ta ráng tịnh yên, Đem sao cho được chữ Thiền vào Thu !
03/10/2015(Xem: 14693)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
02/10/2015(Xem: 9466)
Bài thơ vô cùng súc động Do not stand at my grave and weep (Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ) của Mary Elizabeth Frye (1905-2004) đã được dịch ra không biết bao nhiều thứ tiếng và đã được đọc lên, phổ nhạc, trình bầy không biết bao nhiêu lần bởi các ca sỹ trứ danh. Mary Elizabeth Frye là một bà nội trợ người Mỹ, làm nghề bán hoa. Bà được cả thế giới biết tên vì một lý do độc nhất : bà là tác giả bài thơ « Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ », được viết vào năm 1932. Mary Elizabeth sinh ra ở Dayton, Ohio. Mới ba tuổi đã mồ côi. Sau đến ở Baltimore, Maryland. Năm 27 tuổi lập gia đình với Claud Frye, ông làm nghề buôn bán quần áo. Bài thơ làm bà sau này trở nên nổi tiếng được viết trên một chiếc túi mua sắm, lấy cảm hứng từ chuyện một cô gái trẻ tuổi, Margaret Schwarzkopf, ở với gia đình Frye, đã không thể đến thăm mẹ đang hấp hối ở Đức, vì cô gái là dân Do Thái. Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 12 dòng, không có chủ đề. Frye thấy bạn bè thích nên đã sao nhiều bản và lưu hành, nhưng chưa bao giờ
29/09/2015(Xem: 6834)
Dáng ngồi như núi như non Trăm năm sương gió vẫn còn uy nghiêm Trên cao sừng sững bóng hiền Mưa sa nắng chiếu địa thiên lưu tình Giữa đời lặng lặng thinh thinh Tỏa hương đạo hạnh hậu sinh hồi đầu Tử tôn gánh đội ân sâu Chuông ngân trưa tối, kinh cầu sớm khuya Bước chân hoằng độ đi, về Vườn ươm tỏa bóng bồ đề mát tươi Như non như núi không dời Đạo thành như ý, dáng ngồi thiên thu.
27/09/2015(Xem: 7838)
Nhìn lá rơi VÔ THƯỜNG luôn biến hoại Thân xác nầy cũng duyên hợp tử sanh Vũ trụ kia do tứ đại hợp thành Đâu còn mãi mà thâu gom chấp thủ !
23/09/2015(Xem: 6290)
Em quỳ rạng rỡ nét vui Như sen một đóa vừa ngoi khỏi bùn Chấp tay tâm sáng diệu thường Tàm quý hướng thiện giữa đường tôi qua... Em quỳ thanh khiết ngọc ngà Nguyện xin bất tịnh nhạt nhòa phàm thân Chấp tay tuệ giác bừng tâm Nẻo phù hoa ấy lặng câm tôi nh
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567