Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 386: Phẩm Các Pháp Bình Đẳng 04, Phẩm Bất Khả Động 01

15/07/201520:38(Xem: 12725)
Quyển 386: Phẩm Các Pháp Bình Đẳng 04, Phẩm Bất Khả Động 01

Tập 07

Quyển 386

Phẩm Các Pháp Bình Đẳng 04

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

 

- Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa bốn niệm trụ riêng có pháp giới; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo riêng có pháp giới. Bốn niệm trụ tức là pháp giới, pháp giới tức là bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo tức là pháp giới, pháp giới tức là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp môn giải thoát không riêng có pháp giới; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện riêng có pháp giới. Pháp môn giải thoát không tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện tức là pháp giới; pháp giới tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Pháp không nội chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp không nội riêng có pháp giới; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh riêng có pháp giới. Pháp không nội tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp không nội; pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Thánh đế khổ chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa Thánh đế khổ riêng có pháp giới; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa Thánh đế tập, diệt, đạo riêng có pháp giới. Thánh đế khổ tức là pháp giới, pháp giới tức là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo tức là pháp giới, pháp giới tức là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Tám giải thoát chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa tám giải thoát riêng có pháp giới; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ riêng có pháp giới. Tám giải thoát tức là pháp giới, pháp giới tức là tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ tức là pháp giới, pháp giới tức là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni riêng có pháp giới; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa tất cả pháp môn Tam-ma-địa riêng có pháp giới. Tất cả pháp môn Đà-la-ni tức là pháp giới, pháp giới tức là tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa tức là pháp giới, pháp giới tức là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Bậc Cực hỷ chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa bậc Cực hỷ riêng có pháp giới; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân riêng có pháp giới. Bậc Cực hỷ tức là pháp giới, pháp giới tức là bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân tức là pháp giới, pháp giới tức là bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.

Này Thiện Hiện! Năm loại mắt chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa năm loại mắt riêng có pháp giới; sáu phép thần thông chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa sáu phép thần thông riêng có pháp giới. Năm loại mắt tức là pháp giới, pháp giới tức là năm loại mắt; sáu phép thần thông tức là pháp giới, pháp giới tức là sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! Mười lực Phật chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa mười lực Phật riêng có pháp giới; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng riêng có pháp giới. Mười lực Phật tức là pháp giới, pháp giới tức là mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng tức là pháp giới, pháp giới tức là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Đại từ chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa đại từ riêng có pháp giới; đại bi, đại hỷ, đại xả chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa đại bi, đại hỷ, đại xả riêng có pháp giới. Đại từ tức là pháp giới, pháp giới tức là đại từ; đại bi, đại hỷ, đại xả tức là pháp giới, pháp giới tức là đại bi, đại hỷ, đại xả.

Này Thiện Hiện! Pháp không quên mất chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp không quên mất riêng có pháp giới; tánh luôn luôn xả chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa tánh luôn luôn xả riêng có pháp giới. Pháp không quên mất tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả tức là pháp giới, pháp giới tức là tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Trí nhất thiết chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa trí nhất thiết riêng có pháp giới; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng riêng có pháp giới. Trí nhất thiết tức là pháp giới, pháp giới tức là trí nhất thiết; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tức là pháp giới, pháp giới tức là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Thiện Hiện! Ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa ba mươi hai tướng Đại sĩ riêng có pháp giới; tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc riêng có pháp giới. Ba mươi hai tướng Đại sĩ tức là pháp giới, pháp giới tức là ba mươi hai tướng Đại sĩ; tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc tức là pháp giới, pháp giới tức là tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.

Này Thiện Hiện! Quả Dự lưu chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa quả Dự lưu riêng có pháp giới; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác riêng có pháp giới. Quả Dự lưu tức là pháp giới, pháp giới tức là quả Dự lưu; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác tức là pháp giới, pháp giới tức là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác.

Này Thiện Hiện! Tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát riêng có pháp giới; quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật riêng có pháp giới. Tất cả hạnh Đại Bồ-tát tức là pháp giới, pháp giới tức là tất cả hạnh Đại Bồ-tát; quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật tức là pháp giới, pháp giới tức là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Pháp thế gian chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp thế gian riêng có pháp giới; pháp xuất thế gian chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp xuất thế gian riêng có pháp giới. Pháp thế gian tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp thế gian, pháp xuất thế gian tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp xuất thế gian.

Này Thiện Hiện! Pháp hữu lậu chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp hữu lậu riêng có pháp giới; pháp vô lậu chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp vô lậu riêng có pháp giới. Pháp hữu lậu tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp hữu lậu; pháp vô lậu tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp vô lậu.

Này Thiện Hiện! Pháp hữu vi chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp hữu vi riêng có pháp giới; pháp vô vi chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp vô vi riêng có pháp giới. Pháp hữu vi tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp hữu vi; pháp vô vi tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp vô vi.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu thấy có pháp nào lìa pháp giới thì chẳng phải hướng thẳng đến sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì biết tất cả pháp chẳng lìa pháp giới.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa biết tất cả pháp tức là pháp giới, dùng pháp không danh tướng, phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình mượn danh tướng mà nói: Đây là sắc, đây là thọ, tưởng, hành, thức; đây là nhãn xứ, đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; đây là sắc xứ, đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; đây là nhãn giới, đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; đây là sắc giới, đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; đây là nhãn thức giới, đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; đây là nhãn xúc, đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; đây là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đây là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; đây là địa giới, đây là thủy, hỏa, phong, không, thức giới; đây là nhân duyên, đây là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; đây là các pháp từ duyên sanh ra; đây là vô minh, đây là hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian; đây là sắc pháp, đây chẳng phải sắc pháp; đây là pháp hữu kiến, đây là pháp vô kiến; đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu; đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi; đây là bố thí Ba-la-mật-đa, đây là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; đây là bốn tịnh lự, đây là bốn vô lượng, bốn định vô sắc; đây là bốn niệm trụ, đây là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; đây là pháp môn giải thoát không, đây là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; đây là pháp không nội, đây là pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; đây là chơn như, đây là pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; đây là Thánh đế khổ, đây là Thánh đế tập, diệt, đạo; đây là tám giải thoát, đây là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; đây là tất cả pháp môn Đà-la-ni, đây là tất cả pháp môn Tam-ma-địa; đây là bậc Cực hỷ, đây là bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; đây là năm loại mắt, đây là sáu phép thần thông; đây là mười lực Phật, đây là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; đây là đại từ, đây là đại bi, đại hỷ, đại xả; đây là pháp không quên mất, đây là tánh luôn luôn xả; đây là trí nhất thiết, đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; đây là ba mươi hai tướng Đại sĩ, đây là tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; đây là quả Dự lưu, đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; đây là tất cả hạnh Đại Bồ-tát, đây là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của ông ta, cầm một vật nhỏ, ở trước mọi người, biến thành các loại hình sắc khác nhau, đó là hoặc biến làm nam nữ lớn nhỏ, voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà, lừa, gà v.v... đủ các loại cầm thú; hoặc hóa làm thành ấp tụ lạc, vườn rừng, ao hồ, đủ các cảnh đẹp thật khả ái; hoặc hóa làm y phục, thức ăn uống, phòng xá, đồ nằm, hương hoa, anh lạc, đủ thứ trân bảo; hoặc hóa làm vô lượng các loại kỹ nhạc, phường chèo, làm cho vô số người mừng vui hoan lạc; hoặc hóa làm đủ các loại hình tướng, khiến hành bố thí, hoặc khiến trì giới, hoặc khiến tu nhẫn, hoặc khiến tinh tấn, hoặc khiến tu định, hoặc khiến tu tuệ; hoặc lại hiện sanh dòng dõi lớn Sát-đế-lợi, hoặc lại hiện sanh dòng dõi lớn Bà-la-môn, hoặc lại hiện sanh dòng dõi lớn Trưởng giả, hoặc lại hiện sanh dòng dõi lớn cư sĩ; hoặc lại hóa làm các núi, biển lớn, núi chúa Diệu cao, núi Luân vi v.v... hoặc lại hiện sanh chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại; hoặc lại hiện sanh trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm; hoặc lại hiện sanh trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh; hoặc lại hiện sanh trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh; hoặc lại hiện sanh trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả; hoặc lại hiện sanh trời Vô tưởng, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh; hoặc lại hiện sanh trời Không vô biên xứ, trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ; hoặc lại hiện làm Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác; hoặc lại hiện làm Đại Bồ-tát từ sơ phát tâm tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; học an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; học an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; học an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; hướng nhập Chánh tánh ly sanh của bồ-tát; tu hành bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; du hý tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; du hý tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; dẫn phát đủ các loại thần thông thù thắng, phóng đại quang minh chiếu các thế giới, nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, tu hành các loại công đức của chư Phật; hoặc lại hóa làm Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc viên mãn trang nghiêm, thành tựu mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng v.v... vô lượng, vô biên công đức hi hữu chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như thế, nhà ảo thuật, hoặc đệ tử của y, vì dối gạt người khác, nên ở trước mọi người, hóa làm các trò huyễn hóa này, nhưng trong đám người ấy, những nam nữ lớn nhỏ vô trí thấy việc ấy rồi, đều kinh ngạc khen: Tài thật! Người này biết giỏi nhiều tài nghệ, có thể làm đủ các việc rất hi hữu. Cho đến có thể làm thân Như Lai tướng hảo trang nghiêm, đủ các công đức, khiến chúng vui mừng, tự chứng tỏ kỹ năng của mình! Nhưng trong đó, kẻ có trí thấy việc này rồi, nghĩ thế này: Thật kỳ dị! Tại sao người này có thể hiện ra sự việc ấy! Trong đó không có sự thật, có thể nắm bắt được, lại khiến cho mọi người mê lầm mừng vui. Đối với sự vật không thật, khởi tưởng là vật có thật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát cũng giống như thế, khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tuy chẳng thấy có pháp nào lìa chơn pháp giới, cũng chẳng thấy pháp giới lìa các pháp, cũng chẳng thấy có hữu tình và sự an lập của chúng thật sự có thể nắm bắt được, nhưng có thể dùng các loại phương tiện thiện xảo, tự hành bố thí Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người hành bố thí Ba-la-mật-đa, không khen ngợi pháp làm ngược lại bố thí Ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành bố thí Ba-la-mật-đa; tự hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, không khen ngợi pháp làm ngược lại tịnh giới Ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành tịnh giới Ba-la-mật-đa; tự hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, không khen ngợi pháp làm ngược lại an nhẫn Ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành an nhẫn Ba-la-mật-đa; tự hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, không khen ngợi pháp làm ngược lại tinh tấn Ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành tinh tấn Ba-la-mật-đa; tự hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, không khen ngợi pháp làm ngược lại tịnh lự Ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành tịnh lự Ba-la-mật-đa; tự hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không khen ngợi pháp làm ngược lại Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; tự thọ trì mười nghiệp đạo thiện, cũng khuyên người thọ trì mười nghiệp đạo thiện, không khen ngợi pháp ngược lại sự thọ trì mười nghiệp đạo thiện, hoan hỷ khen ngợi người thọ trì mười nghiệp đạo thiện; tự thọ trì năm giới, cũng khuyên người thọ trì năm giới, không khen ngợi pháp ngược lại sự hành trì năm giới, hoan hỷ khen ngợi người thọ trì năm giới; tự thọ trì tám giới, cũng khuyên người thọ trì tám giới, không khen ngợi pháp ngược lại sự thọ trì tám giới, hoan hỷ khen ngợi người thọ trì tám giới; tự thọ trì giới xuất gia, cũng khuyên người thọ trì giới xuất gia, không khen pháp ngược lại sự thọ trì giới xuất gia, hoan hỷ khen ngợi người thọ trì giới xuất gia; tự tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng khuyên người tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không khen ngợi pháp tu ngược lại với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoan hỷ khen ngợi người tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tự tu bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cũng khuyên người tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, không khen ngợi pháp tu ngược lại với bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, hoan hỷ khen ngợi người tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo; tự tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cũng khuyên người tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, không khen ngợi pháp tu ngược lại với pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, hoan hỷ khen ngợi người tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; tự an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng khuyên người an trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh, không khen ngợi pháp ngược lại sự an trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh, hoan hỷ khen ngợi người an trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh; tự an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cũng khuyên người an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, không khen ngợi pháp ngược lại sự an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, hoan hỷ khen ngợi người an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; tự an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng khuyên người an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, không khen ngợi pháp ngược lại sự an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, hoan hỷ khen ngợi người an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; tự tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cũng khuyên người tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ, không khen ngợi pháp tu ngược lại với tám giải thoát cho đến mười biến xứ, hoan hỷ khen ngợi người tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ; tự tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, cũng khuyên người tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, không khen ngợi pháp tu ngược lại với tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, hoan hỷ khen ngợi người tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; tự tu mười địa Bồ-tát, cũng khuyên người tu mười địa Bồ-tát, không khen ngợi pháp tu ngược lại với mười địa Bồ-tát, hoan hỷ khen ngợi người tu mười địa Bồ-tát; tự tu năm loại mắt, sáu phép thần thông, cũng khuyên người tu năm loại mắt, sáu phép thần thông, không khen ngợi pháp tu ngược lại với năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoan hỷ khen ngợi người tu năm loại mắt, sáu phép thần thông; tự tu mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng khuyên người tu mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, không khen ngợi pháp tu ngược lại với mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, hoan hỷ khen ngợi người tu mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tự viên mãn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, cũng khuyên người viên mãn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, không khen ngợi pháp tu ngược lại sự viên mãn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, hoan hỷ khen ngợi người viên mãn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; tự tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, cũng khuyên người tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, không khen ngợi pháp tu ngược lại với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoan hỷ khen ngợi người tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tự tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng khuyên người tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không khen ngợi pháp tu ngược lại với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoan hỷ khen ngợi người tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Thiện Hiện! Nếu chơn pháp giới, trước, giữa, sau có sự sai biệt thì Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng có thể phương tiện thiện xảo, thuyết chơn pháp giới, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; vì chơn pháp giới, trước, giữa, sau thường không sai biệt. Cho nên, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể phương tiện thiện xảo thuyết chơn pháp giới, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

 

Tập 07

 Quyển 386

 Phẩm Bất Khả Động 01

 

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình và sự an lập của hữu tình đều rốt ráo chẳng thể nắm bắt được thì các Đại Bồ-tát vì ai mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát lấy cảnh Niết-bàn làm lượng nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Nếu cõi hữu tình cùng với cảnh Niết-bàn khác nhau thì các Đại Bồ-tát chẳng nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì cõi hữu tình chẳng khác cảnh Niết-bàn cho nên Đại Bồ-tát vì các hữu tình tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dùng pháp Niết-bàn chẳng hoại an lập hữu tình ở trong cảnh Niết-bàn.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu có cõi hữu tình tức là cảnh Niết-bàn thì tại sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dùng pháp Niết-bàn chẳng hoại an lập hữu tình trong cảnh Niết-bàn?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an lập hữu tình ở trong cảnh Niết-bàn, thì tức là an lập cảnh Niết-bàn ở cảnh Niết-bàn?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa an lập cảnh Niết-bàn ở cảnh Niết-bàn thì tức là an lập tự tánh nơi tự tánh. Nhưng chẳng nên an lập tự tánh nơi tự tánh?

Bạch Thế Tôn! Vì sao có thể nói Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dùng pháp Niết-bàn chẳng hoại an lập hữu tình ở trong cảnh Niết-bàn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chẳng thể an lập Niết-bàn nơi Niết-bàn, cũng chẳng thể an lập tự tánh nơi tự tánh. Nhưng các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo, có thể an lập hữu tình ở trong cảnh Niết-bàn, nhưng cõi hữu tình chẳng khác cảnh Niết-bàn.

Này Thiện Hiện! Như thế, cõi hữu tình cùng với cảnh Niết-bàn không hai, không hai phần.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là phương tiện thiện xảo của các Đại Bồ-tát, khi các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Do sức phương tiện thiện xảo này, nên an lập hữu tình ở trong cảnh Niết-bàn nhưng chẳng có thể hoại tướng Niết-bàn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, từ khi mới phát tâm, đã thành tựu phương tiện thiện xảo như thế. Do sức phương tiện thiện xảo này, nên an lập hữu tình ở trong bố thí, đã an lập rồi, vì họ nói sự bố thí khoảng trước, sau, giữa không có tướng sai biệt, nói thế này: Này thiện nam tử! Bố thí như thế, khoảng trước, sau, giữa tất cả đều không. Người thí, kẻ nhận, kết quả sự bố thí cũng đều không. Như thế, tất cả trong cảnh Niết-bàn hoàn toàn không có sở hữu, đều chẳng thể nắm bắt được. Các ngươi chớ chấp bố thí có sự sai khác và kẻ thí, người nhận, kết quả bố thí, Niết-bàn cũng có sự sai khác. Nếu các ngươi chẳng chấp bố thí, người thí, kẻ nhận, kết quả bố thí, Niết-bàn có sự sai khác, thì phước đã tu bố thí sẽ đưa đến Niết-bàn, đắc quả Niết-bàn, quyết dùng Niết-bàn mà tạo đời sau. Lại nói thế này: Này các thiện nam tử! Các người dùng sự tu bố thí này chớ chấp thủ sắc, chớ chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức; chớ chấp thủ nhãn xứ, chớ chấp thủ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chớ chấp thủ sắc xứ, chớ chấp thủ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chớ chấp thủ nhãn giới, chớ chấp thủ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chớ chấp thủ sắc giới, chớ chấp thủ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chớ chấp thủ nhãn thức giới, chớ chấp thủ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chớ chấp thủ nhãn xúc, chớ chấp thủ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chớ chấp thủ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chớ chấp thủ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chớ chấp thủ địa giới, chớ chấp thủ thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chớ chấp thủ nhân duyên, chớ chấp thủ đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chớ chấp thủ các pháp từ duyên sanh ra; chớ chấp thủ vô minh, chớ chấp thủ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chớ chấp thủ bố thí Ba-la-mật-đa, chớ chấp thủ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chớ chấp thủ bốn tịnh lự, chớ chấp thủ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chớ chấp thủ bốn niệm trụ, chớ chấp thủ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chớ chấp thủ pháp môn giải thoát không, chớ chấp thủ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chớ chấp thủ pháp không nội, chớ chấp thủ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chớ chấp thủ chơn như, chớ chấp thủ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chớ chấp thủ Thánh đế khổ, chớ chấp thủ Thánh đế tập, diệt, đạo; chớ chấp thủ tám giải thoát, chớ chấp thủ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chớ chấp thủ tất cả pháp môn Đà-la-ni, chớ chấp thủ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chớ chấp thủ bậc Cực hỷ, chớ chấp thủ bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chớ chấp thủ năm loại mắt, chớ chấp thủ sáu phép thần thông; chớ chấp thủ mười lực Phật, chớ chấp thủ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chớ chấp thủ ba mươi hai tướng đại sĩ, chớ chấp thủ tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; chớ chấp thủ pháp không quên mất, chớ chấp thủ tánh luôn luôn xả; chớ chấp thủ trí nhất thiết, chớ chấp thủ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chớ chấp thủ quả Dự lưu, chớ chấp thủ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; chớ chấp thủ tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chớ chấp thủ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; chớ chấp thủ pháp thế gian, chớ chấp thủ pháp xuất thế; chớ chấp thủ pháp hữu lậu, chớ chấp thủ pháp vô lậu; chớ chấp thủ pháp hữu vi, chớ chấp thủ pháp vô vi. Vì sao? Vì tất cả bố thí và tánh bố thí là không; tất cả người thí và tánh người thí là không; tất cả người nhận và tánh người nhận là không; tất cả kết quả bố thí và tánh của kết quả bố thí là không; trong cái không, bố thí chẳng thể nắm bắt được, người thí chẳng thể nắm bắt được, người nhận chẳng thể nắm bắt được, kết quả bố thí chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh của các pháp như thế và các pháp khác rốt ráo không. Trong cái rốt ráo không, các pháp như thế, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, từ khi mới phát tâm đã thành tựu phương tiện thiện xảo như thế; do sức phương tiện thiện xảo này, nên an lập hữu tình ở trong tịnh giới; đã an lập rồi, nói thế này: Các thiện nam tử! Nay các ngươi đối với các hữu tình nên thương xót sâu xa, xa lìa sự giết hại, xa lìa việc không cho mà lấy, xa lìa dâm dục, tà hạnh, xa lìa lời nói hư dối, xa lìa lời nói ly gián, xa lìa lời nói thô ác, xa lìa lời nói hỗn tạp, xa lìa tham dục, xa lìa sân nhuế, xa lìa tà kiến. Vì sao? Này thiện nam tử! Vì các pháp như thế hoàn toàn không có tự tánh. Các ngươi chẳng nên phân biệt chấp trước. Các ngươi lại nên quán sát kỹ pháp nào là sanh mà muốn dứt mạng nó? Lại vì duyên cớ gì mà dứt mạng nó? Pháp nào gọi là vật không cho mà lấy mà muốn lấy vật ấy? Lại vì duyên cớ gì mà lấy vật ấy? Pháp nào gọi là đối tượng hành tà mà muốn hành tà hạnh? Lại vì duyên cớ gì mà hành tà hạnh? Pháp nào gọi là đối tượng nên nói hư dối mà muốn nói hư dối? Lại vì duyên cớ gì mà nói hư dối? Pháp nào gọi là đối tượng nên ly gián mà muốn làm ly gián? Lại vì duyên cớ gì mà nói lời ly gián? Pháp nào gọi là đối tượng nên hủy nhục mà muốn hành hủy nhục? Lại vì duyên cớ gì mà nói lời thô ác? Pháp nào gọi là các sự hỗn tạp mà muốn nói lời hỗn tạp? Lại vì duyên cớ gì mà nói lời hỗn tạp? Pháp nào gọi là vật nên tham mà muốn khởi lòng tham muốn? Lại vì duyên cớ gì mà khởi tham muốn? Pháp nào gọi là đối tượng nên sân mà muốn khởi sân? Lại vì duyên cớ gì mà khởi sân giận? Pháp nào gọi là đối tượng tà kiến mà muốn khởi tà kiến? Lại vì duyên cớ gì mà khởi tà kiến? Tất cả như thế, tự tánh đều không.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, có khả năng khéo léo thành thục các loài hữu tình, vì họ mà nói quả bố thí và tịnh giới hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, khiến họ biết quả bố thí và tịnh giới, tự tánh đều không. Khi họ đã hiểu rõ quả của sự tu bố thí và tịnh giới, tự tánh là không rồi, thì có thể đối với pháp ấy chẳng sanh chấp trước; do chẳng chấp trước, tâm không tán loạn; do không tán loạn, có thể phát diệu tuệ; do diệu tuệ này đoạn trừ vĩnh viễn tùy miên và các triền rồi, nhập cảnh giới Niết-bàn tuyệt đối.

Này Thiện Hiện! Như vậy là nương vào thế tục mà nói, chẳng y cứ vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong không, không có một pháp nhỏ nào có thể nắm bắt được; hoặc đã Niết-bàn, hoặc sẽ Niết-bàn, hoặc hiện Niết-bàn, hoặc người Niết-bàn, hoặc do đó mà đắc Niết-bàn, tất cả như thế, hoàn toàn không có sở hữu, đều rốt ráo không; tánh không rốt ráo tức là Niết-bàn, lìa Niết-bàn này không có một pháp riêng biệt nào.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, từ khi mới phát tâm, đã thành tựu phương tiện thiện xảo như thế; do sức phương tiện thiện xảo này thấy các hữu tình tâm nhiều sân giận, vô cùng thương xót, phương tiện dạy bảo, nói thế này: Này thiện nam tử! Nên tu an nhẫn, ưa pháp an nhẫn, chế ngự tâm mình, thọ hạnh an nhẫn. Việc làm cho người giận, tự tánh là không, thì tại sao đối với nó phát khởi sân giận? Các ngươi lại nên quán sát kỹ càng, vì đâu mà ta nổi giận? Ai sân giận? Sân giận ai? Các pháp ấy, bản tánh đều không; pháp bản tánh không chưa từng chẳng không; tánh không như thế chẳng phải Như Lai tạo ra, chẳng phải Độc giác tạo ra, chẳng phải Thanh-văn tạo ra, chẳng phải Bồ-tát tạo ra, cũng chẳng phải trời, rồng, chư thần, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn tạo ra; cũng chẳng phải chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại tạo ra; cũng chẳng phải trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm tạo ra; cũng chẳng phải trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh tạo ra; cũng chẳng phải trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh tạo ra; cũng chẳng phải trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả tạo ra; cũng chẳng phải trời Vô tưởng tạo ra; cũng chẳng phải trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh tạo ra; cũng chẳng phải trời Không vô biên xứ, trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ tạo ra. Các ngươi lại nên như thật quán sát, sân giận ấy do đâu mà sanh, thuộc về ai? Lại đối với ai mà khởi? Sẽ gặt hái quả gì? Hiện được lợi ích gì? Tất cả pháp như thế, bản tánh đều không, chẳng phải trong tánh không, có thể có sân giận, cho nên cần phải an nhẫn để đem lại lợi ích cho mình.

Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo, an lập hữu tình ở lý tánh không, nhân quả tánh không, dần dần đem quả vị giác ngộ cao tột chỉ bày, khuyến khích, dẫn dắt, ngợi khen, chúc mừng, khiến khéo an trụ, mau có thể chứng đắc.

Này Thiện Hiện! Như thế là nương thế tục mà nói, chẳng y cứ vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong bản tánh không, không có thể đắc sở đắc, đắc xứ, đắc thời, tất cả chẳng phải có.

Này Thiện Hiện! Đó gọi là thật tế, bản tánh không lý; các Đại Bồ-tát vì muốn làm lợi ích các hữu tình, nên nương vào thật tế bản tánh không lý này, khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng nắm bắt hữu tình, lại cũng chẳng nắm bắt sự an lập của hữu tình. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp lìa hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, từ khi mới phát tâm đã thành tựu phương tiện thiện xảo như thế; do sức phương tiện thiện xảo này, thấy các hữu tình thân tâm giải đãi, thối mất tinh tấn, phương tiện khuyên bảo, dẫn dắt, khiến họ phát khởi thân tâm tinh tấn, tu các thiện pháp, nói thế này: Thiện nam tử! Trong bản tánh không, không có pháp giải đãi, không có người giải đãi, không có chỗ giải đãi, không có lúc giải đãi, không do việc này mà phát sanh giải đãi. Tất cả pháp ấy đều bản tánh không, chẳng vượt không lý. Các ngươi nên phát tinh tấn thân tâm, bỏ các giải đãi, siêng tu thiện pháp, đó là bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, hoặc tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, hoặc tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, hoặc tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, hoặc tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tu bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; hoặc an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; hoặc tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; hoặc tu bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; hoặc tu năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc tu mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; hoặc tu ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; hoặc tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc tu tất cả các Phật pháp khác. Chớ sanh giải đãi; nếu sanh giải đãi thì chịu khổ vô cùng. Này các thiện nam tử! Tất cả pháp ấy, bản tánh đều không, không có các chướng ngại. Các ngươi nên quán lý bản tánh không, trong cái không chướng ngại, không có việc giải đãi, không có người giải đãi. Xứ, thời, duyên của việc này cũng chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Như thế, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo an lập hữu tình khiến an trụ lý bản tánh không của các pháp; tuy khiến an trụ nhưng không có hai tưởng. Vì sao? Vì lý bản tánh không, không hai, không hai phần, chẳng phải đối với pháp không hai có thể khởi hai tưởng.

 

Quyển thứ 386

Hết

***

lotus-2 (1)

Layout vào mạng:
Hoàng Lan Giác Thiện Duyên

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567