Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương VII: Nghệ thuật Phật giáo vương triều vua A Dục và sau đó

21/05/201319:28(Xem: 7415)
Chương VII: Nghệ thuật Phật giáo vương triều vua A Dục và sau đó

Lịch sử Phật Giáo Ấn Độ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trídịch

---o0o---

CHƯƠNG VII

NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO - VƯƠNG TRIỀU VUA A DỤC VÀ SAU ĐÓ

TIẾT I. SỰ HƯNG SUY CỦA VƯƠNG TRIỀU.

- Sự tàn lụi của vương triều Khổng Tước.

Chính cuộc của Ấn Độ, tính từ khi tổ phụ của vua A Dục chưa kiến lập vương triều Khổng Tước, thì tại quốc nội, Ấn Độ không thể thống nhất được nổi, bởi các dị tộc từ tây bắc không ngớt xâm nhập vào nội địa Ấn Độ; lúc vương triều Khổng Tước hưng khởi, chính là lúc Ấn Độ đánh lui được thế lực của Hy Lạp do A Lịch Sơn để lại tại nước Ấn, mãi đến thời A Dục Vương, Ấn Độ mới xuất hiện cục diện đại thống nhất. Nhờ vua A Dục là vị quân vương hết lòng tin Phật, nhân đấy mà Phật giáo đại hưng. Sự sùng kính Phật giáo của vua A Dục được thể hiện bằng những việc làm như: bố thí rộng khắp, ở dâu có nghèo đói, ở đó liền có kế sách cứu giúp. Ông cho kiến tạo tám vạn bốn nghìn tòa bảo tháp để phụng thờ xá lợi Phật. Ông cho tu sửa tất cả tịnh xá, nồng hậu cúng đường chư tăng, khiến giới ngoại đạo vì tham lợi dưỡng phong túc mà vào cung thất đề nghị vua A Dục lập chùa Kê Viên cho giới Tăng già của họ, và họ phá hòa hợp tăng của Phật giáo, làm cho tăng giới không hòa hợp để tụng giới trong bảy năm ròng. Vua A Dục đối với Phật giáo, thậm chí ông ba lần đem cả phù đồ (quốc độ) ra bố thí.

Những việc làm của A Dục như vừa nêu dẫn đến ba hậu quả:

1. Phật giáo nhờ sinh hoạt đời sống dư dật, khiến nhiều phần tử trong tăng đoàn ngày càng đọa lạc, và trở nên phức tạp.

2. Quốc gia nhiều năm liền làm các Phật sự tu phước, khiến quốc khố trở nên trống rỗng.

3. Các hàng ngoại đạo thấy quốc vương thiên vị Phật giáo, và thường làm “vô giá đại thí” (bố thí không giới hạn), nên sinh lòng tật đố, ganh ghét Phật giáo. Cũng vì thế nên lúc tuổi về già các vương thất và đại thần giới hạn nhà vua chỉ được dùng nửa quả A Ma Lặc để cúng tăng. Nhưng những việc đại bố thí của vua A Dục không phải là điều mà đức Phật hy vọng, đức Thích Tôn thường luôn khuyến khích việc bố thí, và Ngài cũng lưu lại lời dạy về việc bố thí với đầy lòng nhân ái; ấy là hãy lượng sức mình mà làm việc bố thí. Đời sau các đệ tử Phật mỗi khi khuyên tín chúng bố thí, thì nên bắt chước tinh thần Bồ tát mà bố thí, ấy là xả bỏ tất cả mọi sở hữu về tài sản, thân mệnh để bố thí, dụng ý của lời khuyên là nhằm loại bỏ lòng tham đắm, nhưng lại trái ngược với thường tình của đời thường, tiếc thay!

Vương triều Khổng Tước truyền được ba đời mới đến đời vua A Dục. Ba vị vua trước vua A Dục cũng đều là những vị vua sùng tín Phật giáo, và thế nước rất cường thịnh. Sau khi vua A Dục băng hà, quốc thế gặp phải tai biến cố đột ngột, nguyên do chính là do vị vua kế tiếp không đủ tài năng, và lại thù ghét Phật giáo, đó là vua Đạt Ma Sa Đà La, con vua A Dục, ông này tín phụng Kỳ Na giáo, nhà vua cho kiến lập rất nhiều tự viện Kỳ Na giáo khắp nơi thuộc Ngũ Ấn. Đến đời cháu vua A Dục là vua Thập Xa, ông tin theo tà mạng ngoại đạo để tạo ba động Quật Tinh Xá. Đời chắc vua A Dục là vua Đa Xa, ông lên ngôi vua nhưng không được lòng dân, và bị vị đại tướng là Bổ Sa Đa Ma Lợi (Pusymitra) dấy binh chống lại và giết chết vua Đa Xa, (đó là nhờ sự trợ lực của vị quốc sư thuộc giòng họ Bà La Môn và tự lập lên làm vua). Như vậy vương triều Khổng Tước trải qua sáu vị vua, trị vì được một trăm ba mươi bảy (137) năm (từ năm 322 đến 185 trước tây lịch) thì bị diệt vong. Sau vua A Dục, Phật giáo không những không được con cháu ông kính trọng mà còn bị họ thù ghét. Do đó, tăng đồ bị tá tán, họ hướng về tây nam và tây bắc Ấn Độ để phát triển. Đồng thời, sau khi vua A Dục khứ thệ, đột nhiên tộc người Đạt La Duy Trà ở nam Ấn lại hưng khởi. Người Ai Cập và người Ba Tư lại tiến sâu vào mạn bắc Ấn. Khiến Ấn Độ một lần nữa rơi vào cục diện phân tranh.

- Pháp nạn tại trung Ấn.

Bổ Sa Mật Đa La là vị tướng lĩnh của vương triều Khổng Tước dưới thời vua Đa Xa, ông được vị quốc sư thuộc dòng Bà La Môn trợ giúp mà dấy khởi, và rồi tự xưng vương. Kinh đô của vương triều Khổng Tước là thành Hoa Thị, nên cũng tại đây ông kiến lập vương triều Hắc Ca. Ông vốn nhờ quốc sư Bà La Môn mà nên vương nghiệp. Do đó, ông tin nghe theo vị quốc sư này, và cho rằng vương triều Khổng Tước sở dĩ bị tiêu vong là do quá sùng tín Phật giáo - một tôn giáo vô thần, vô tránh (không tranh cãi hơn thua). Vì thế ông cho thực hành lại phép tu Mã tự (Asvanedha). Phép tu này trước đó bị vua A Dục nghiêm cấm.

Sau khi tái thực hành phép tu Mã tự, ông có cuộc tây chinh và dành được ít nhiều thắng lợi, nhân đó giáo sĩ Bà La Môn cậy thế mà đại chấn hưng. Bà La Môn giáo núp dưới âm mưu chính trị, mở rộng cuộc vận động bài xích Phật giáo khắp nơi. Bấy giờ Phật giáo phải hứng chịu khổ ách cùng cực; chỉ tiếc trong các truyện ký không ghi lại tường tận pháp nạn này. Hiện nay nhờ cuốn “A Dục Vương Truyện”, và bộ “ Xá Lợi Phất Vấn Kinh” v.v... để có được sự hiểu biết ít nhiều về giai đoạn này. Theo Xá Lợi Phất Vấn Kinh, thì vua Bổ Sa Mật Đa La hy vọng ông cũng sẽ lưu danh bất hủ giống như vua A Dục, nhưng ông cũng tự biết uy đức mình không thể sánh kịp với tiên vương (A Dục Vương). Tiên vương thì kiến tạo tám vạn bốn nghìn bảo tháp thờ xá lợi Phật, và dốc cạn tài vật quốc gia để cúng dường Tam Bảo mà lưu lại thịnh danh. Ngược lại, vua Bổ Sa Mạt Đa La la người “phá tháp diệt pháp”, không ngừng tàn diệt tứ chúng đệ tử Phật, thì làm sao lưu được thịnh danh. Ông sát hại tập thể bất luận đó là Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, Sa di hay Sa di ni, không kể lớn nhỏ. Sự giết hại khiến máu chảy thành sông, và tàn phá chùa tháp hơn tám trăm ngôi, ngay cả các thanh tín sĩ(1)cũng bị phiền hà tù tội, và chịu nhiều hình phạt roi gậy. Đương thời có năm trăm vị La hán vượt qua dãy núi phái nam nhờ đó mà thoát được kiếp nạn. Theo luận Đại Tỳ Bà Sa(2), phần cuối quyển 125, chép: “Xưa có vị vua Bà La Môn tên là Bổ Sa Hữu đem lòng ganh ghét phương pháp, ông cho thiêu đốt kinh điển, hủy “tốt đổ ba” (tháp); phá Tăng già lam, hại Bí sô (Tỳ kheo) chúng, chỉ riêng khu vực biên cảnh giáp với nước Ca Thấp Di La, ông cho phá hủy năm trăm Tăng già lam (chùa tăng cư trú), huống nữa là các nơi khác”. Đoạn văn trên là miêu tả vua Bổ Sa Mật Đa lúc ông tây chinh có được “tiểu chiến thắng”. Cùng lúc cũng tại vùng biên cảnh nước Ca Thấp Di La, ông mở cuộc vận động bài Phật giáo. Còn đoạn văn được nói trong “Xá Lợi Phất Vấn Kinh” là chỉ tình hình tại thành Hoa Thị thuộc trung Ấn Độ. Việc năm trăm vị la hán vượt qua dãy núi phía nam, ấy là chỉ một bộ phận tăng nhân Phật giáo thoát khỏi nước Ma Kiệt Đà ở trung Ấn dể đi đến nam Ấn Độ.

Như vậy vương triều Hắc Ca của nước Ma Kiệt Đà được hình thành sau Phật diệt độ và truyền đến vị vua thứ mười là Địa Thiên vương, thời gian là một trăm mười hai năm (trước tây lịch từ 185 đến 73 năm), và lại cũng do đại thần giòng Bà La Môn là Bà Tu Đề Bà được một quốc sư Bà La Môn ủng hộ mà soán ngôi và kiến lập vương triều Ca Lạp Bà một cách riêng biệt, vương triều này truyền được bốn đời, đến đời vua Thiên Hộ là dứt, trước sau được bốn mươi lăm năm (trước tây lịch 28 năm) thì bị vương triều Án Đạt La của vua Bà Đà Ha (Sàtavàhana) ở ;nam Ấn tiêu diệt. Trong khi đó tại trung Ấn Độ, Bà La Môn giáo lại phục hưng, tuy kết cục cũng vẫn không cứu nổi sự suy tàn của Ma Kiệt Đà (ở đây là vương triều Hắc Ca). Nhưng tại nam Ấn và tây Ấn, Phật giáo lại trở nên hưng thịnh nhờ thế nước tại hai khu vực này rất mạnh.

Từ lúc trung Ấn bị Án Đạt La của nam Ấn thôn tính, và kiến lập vương triều Án Đạt La cũng tại nam Ấn Độ, và cùng với vương triều Quý Sương của bắc Ấn Độ đối địch nhau, tạo thành tình thế phân cục nam - bắc triều.

- Vương triều Án Đạt La.

Từ sau thời vua A Dục, lãnh thổ của đế quốc Ma Kiệt Đà lần hồi bị thu hẹp, tại đông nam Ấn Độ, tộc người Án Đạt La - phân chi của dân tộc Đạt La Duy Trà, thừa lúc vương triều Khổng Tước đang hồi suy vi mà tuyên cáo độc lập. Ước khoảng từ năm 240 - 230 trước tây lịch. Vua Thi Ma Ca (Simuka) người hưng khởi vương triều Bà Đa Bà Ha và lập kinh đô tại đất Đà na Yết Kiệt Ca (Dhanakataka), cao ngyên Đưc Can (Deccan) cũng thuộc về vương triều này. Trước Công nguyên hai mươi tám năm, vương triều Bà Đa Bà Ha thôn tính toàn bộ vùng trung Ấn của Ma Kiệt Đà. Sau Công nguyên khoảng một trăm năm lẻ sáu (106) năm, vua Kiều Đạt Di Phổ Đặc La, và vua Tất Đạt Khải Nhĩ Ni (Gautamìputra Sàtakarni) bành trướng lãnh thổ sang tây Ấn Độ, nhưng thừa lúc vương triều Bà Đa Bà Ha bị suy yếu, các địa phương tại trung Ấn và tây Ấn liền tuyên bố ly khai. Khoảng năm 225 sau Công nguyên (có thể là năm 226), vương triều Bà Đa Bà Ha bị diệt vong.

Về mặt tín ngưỡng tôn giáo, vương triều Bà Đa Bà Ha của tộc Án Đạt La, phần lớn các vua tín phụng Bà La Môn giáo, trong đó cũng có một số vị quân vương tín phụng Kỳ Na giáo và Phật giáo, cũng có vị bảo hộ và hoằng dương Phật pháp. Vị anh chúa là Tất Đạt KhảiNhĩ Ni cùng mẫu hậu bố thí tịnh xá Động - Quật cho tăng đồ Hiền Vị Bộ. Lại có vua Bà Đa Bà Ha lấy hang động trên đỉnh Hắc Sơn cúng ngài Long Thọ. Đoán rằng đây có thể là vua Kiều Đạt Di Phổ Đặc La. Khoảng từ năm 170 - 201 sau tây lịch hoặc vua Da Kỳ Na Xá Lợi (Gautamìputra Yajnõasri).

Riêng tại Tích Lan, có vị vua tên là Mộc Xoa Già Ma Ni kiến thiết tịnh xá, đại tháp, đồng điện v.v... tại vùng đất A Nậu La Đà Bổ La, và cúng dường tăng già rất hậu. Tại đây vị quân vương làm người ngoại hộ; do đó, mà Phật giáo tại Tích Lan phát triển vô cùng thuận lợi. Khi Phật giáo chưa truyền đến Tích Lan, thì người dân tại đây cũng đã cất Vô Úy Sơn Tự để cúng dường cho Ni Kiền Tử (môn đồ Kỳ Na giáo). Họ cũng chuyển sang cúng dường ngôi đại tự cho trưởng lão Ma Ha Đế Tu. Về sau nhờ có nhiều vị vua và đại thần hộ trì, nên tại Tích Lan cho kiến tạo được rất nhiều chùa tháp Phật giáo. Tích Lan vốn là một chi của Phật giáo Ấn Độ, do đó sách này sẽ dành một thiên để giới thiệu, ở đây chỉ xin sơ lược.

- Vua Di Lan Đà.

Sau khi A Lịch Sơn Đại xâm nhập Ấn Độ (năm 326 trước tây lịch), lại có một người Hy Lạp rất nổi tiếng tên là Đức Di Đa Lợi Áo Tư (Demetrois) thống suất đại quân tái chiếm A Phú Hãn (Afghanistan), rồi từ A Phú Hãn xâm nhập Ấn Độ bằng cách vượt qua sông Tín Độ, chiếm hữu các địa khu thuộc thượng du sông Hằng, và đóng đô tại Xá Kiệt (Xa Yết La - Sàkala) - Vua Di Lan Đà thuộc tộc người Demetrois.

- Vua Di Lan Đà (Milanda) lên ngôi khoảng năm 160 trước Công nguyên. Ông là vị vua tịnh tín đối với Phật giáo, ông từng đến trước Na Già Tư Na (Nàgasena được dịch là Long Quân, hoặc dịch âm là Na Tiên) Tỳ kheo để hỏi Phật pháp. Sự kiện này được biên tập thành bộ sách, đó là bộ “Di Lan Đà Vấn Kinh” được viết bằng văn tự Ba Lị, mà bản Hán dịch vơi tên là “Na Tiên Tỳ Kheo Kinh”.

Theo Ấn Độ Thông Sử của Chu Tường Quang, trang 88 chép là vào khoảng năm 155 trước Công nguyên, Khách Bố Nhĩ (Kabul) và tổng đốc của Bàng Giá Phổ là Mai Na Đà (Menander) thống suất đại quân Hy Lạp tấn công nước Ma Kiệt Đà, vì thế mà Ma Thâu La, A Du Đà (Ayodhyà), Mạt Đệ Mật Ca (Madhyamika) cũng thường xuyên bị vậy hãm, mãi tới khi thành Hoa Thị thuộc vương triều Hăc Ca cử đại quân đánh bại quân Hy Lạp, và buộc họ phải thối lui. Sau đó vài năm, Bổ Sa Mật Đa La xưng vương và cho thực hành phép Mã tự. Phép Mã tự dùng ngựa làm vật để hiến tế; phàm ngựa được hiến tế mà chạy qua bang nào, thì bang (nước) đó được làm phép Mã tự, tức là cho quân gia nhập sĩ gia nhập đội bảo vệ lễ cúng ngựa, nếu không ắt phát sinh chiến tranh. Quân đội Hy Lạp nhân đó bắt được cháu của Bổ Sa Mật Đa La - người thống suất đội bảo vệ tế mã, và đánh nhau với Bà Tô Mật Đa La (Vasumtra - tướng của vương triều Hắc Ca), quân tướng Hy Lạp đánh bại quân của Tô Mật Đa La hai bên bờ sông Ấn hà.

Mai Na Đà được nói trên đây là vua Di Lan Đà, gọi giản đơn là vua Di Lan. Trước ông đến nước Ấn Độ Đại Hạ, đồn trú tại Kabul và làm tổng đốc tại Bàng Giá Phổ. Sau đó ông kế vương vị nước Đại Hạ. Lãnh thổ do ông thống trị bao gồm Afghanistan, lưu vực Ấn Độ hà, Lạp Gia Phổ Đại Na (Rajaputana) và một bộ phận của đông bộ Ấn Độ. Sau khi ông chết, thì Ấn Độ Đại Hạ bị chia đôi, vị vua sau cùng có tên là Hạng Mậu Tư (Hermanes), vào năm 50 trước Công nguyên, ông đầu hàng Đại Nguyệt Thị (Cơ Tộc - Scythian) thuộc vương triều Quí Sương.

- Vương triều Quí Sương.

Kế tiếp sau người Hy Lạp xâm nhập Ấn Độ là tộc người Đại Nguyệt Thị, tộc người này xâm nhập vào vùng tây bắc Ấn Độ. Theo “Hán Thư Tây Vực Truyện” chép: “Đại Nguyệt Thị vốn định cư tại Đôn Hoàng bị họ Hạnh Đốn đánh phá, nhân đấy Lão Thượng Đơn tàn sát tộc Đại Nguyệt, dùng đầu của tộc Ngyệt Thị bị giết làm đồ đựng thức uống. Từ đó tộc Nguyệt Thị bỏ chạy khỏi dải Đôn Hoàng, vượt qua Đại Uyển, đánh phá phái tây nước Đại Hạ, nhưng lại thần phục Đại Hạ. Lập thành triều đình và đóng đô ở phái bắc Quy Thủy”. Tây Vực Truyện cho biết là tộc Nguyệt Thị: “Có năm Linh hầu, một là Hưu Mật Linh hầu, hai là Song Mi Linh hầu, ba là Quí Sương Linh hầu, bốn là Khoa Đốn Linh hầu, năm là Độ Mật Linh hầu”.

Phần sau cùng của “Hậu Hán Thư Tây Vực Truyện” lại chép: Lúc đầu tộc Nguyệt Thị bị người Hung Nô tiêu diệt, bèn chạy đến Đại Hạ định cư, chia đất nước ra thành năm Bộ Linh hầu. Hơm trăm năm sau, Linh Hầu Quí Sương là Khưu Tự Khước, tấn công tiêu diệt bốn linh hầu còn lại, rồt tự lập lên làm vua, xưng quốc hiệu là Quí Sương. Vua nước Quí Sương mang quân đi xâm lược An Tức Chiêm lấy đất Cao phủ, lại tiêu diệt Bộc Đạt, Kế Tân mà có được nước riêng cho vương triều Quí Sương. Khưu Tựu Khước sống hơn tám mươi tuổi mới chết. Con là Diêm Cao Trân lên thay cha làm vua, lại một lần nữa đánh phá nước Thiên Trúc”.

Tộc Nguyệt Thị gốc là giống người Mông Cổ bị người Hung Nô tại vùng sơn cốc thuộc tỉnh Cam Túc của Tung Quốc đuổi chạy đến Đại Hạ (nay là Châu Bố Hiệp Nhĩ của Thổ Nhĩ Kỳ Tư Đát). Thời ấy Đại Hạ là đất bị thực dân Tây Hạ cai trị, và do bộ tướng của A Lịch Sơn Đại (Alexander) lập thành một tiểu quốc. Khưu Tựu Khước đánh bại người Hy Lạp, lập nên vương triều Quí Sương. Sau khi bị đại bại, người Hy Lạp rút chạy về phía nam, và tiến vào Ca Thấp Di La thuộc vùng tây bắc Ấn Độ (nay là Khách Thập Nhĩ Mễ - tức bang Kamira do từ sự kiện này), tiếp đó tộc Nguyệt Thị truy đuổi người Hy Lạp nên cũng tiến vào Ấn Độ. Đến con của Diêm Cao Trân là vua Ca Nị Sắc Ca (theo V.A. Smith, thì vua Ca Nị Sắc Ca lên ngôi năm 120 sau tây lịch). Thời này, vùng phía tây bắc trung Ấn Độ mới trở thành cộng chủ dưới quyền vua Ca Nị Sắc Ca. Về niên đại lên ngôi của vua Ca Nị Sắc Ca không thể xác định. Nếu căn cứ việc ông cho đúc tiền mà khảo sát. Thì đại khái khoảng từ năm 78 đến 128 tây lịch. Nhưng đó là thời kỳ ông tại vị(3)

Về phương diện lịch sử Phật Giáo Ấn Độ, thì địa vị vua Ca Nị Sắc Ca và A Dục đều được coi là các ông vua của Phật Giáo, cả hai đều là những bậc quân vương hùng tài đại lược, văn trị, võ công song toàn, người trước người sau đều ngời sáng. Vua Ca Nhị Sắc Ca kiến lập kinh đô tại Bố Lộ Sa Bố La (Purusa - Pura, nay là A Phú Hãn và giao giới với xứ Ba Cơ Tư Đát (Pakistan) của Bạch Hạ Ngõa), đông giáp lưu vực sông Diêm Ngưu Na, nam từ dãi sơn mạch Tần Xà Da (Vindhya) đến Ấn Độ hà khẩu, tây tiếp giáp An Tức (nay là Y Lãn và một bộ phận của A Phú Hãn), đông bắc chạy đến phía đông của ngọn Đạt Đát Ân. Nghiễm nhiên là một đại đế quốc.

Theo sử gia Tra Na Tư Hoa (KP. Jayaswal), thì trong ba mươi ba ba vị vua của vương triều Quí Sương. Chỉ có mười tám vua trước thống lãnh đến tận trung Ấn Độ; từ thời trung kỳ trở lui, tại địa phương Ca Ma Phổ (Campà) đã có vương triều Na Già Tư Na (Nàgasena) - 150 - 134 sau tây lịch. Tại địa phương Kiều Đức (Gaudà), có vương triều Kiều Đức (? - 320 tây lịch). Sau này có vua Phổ Lạp Bạch Suy Tư Nô (Prabhavisnu) xuất hiện, và thôn tính cả hai vương triều Na Già Tư Na và Kiều Đức đến vua Sa Mổ Đà La Cấp Đa (Samudra - gupta), người sáng lập vương triều Cấp Đa. Ấn Độ một lần nữa qui về thống nhất. Thực ra thì nền tảng của vương triều cấp đa được dựng xây từ thời vua cha là Chiên Đà La Cấp Đa đệ nhất (Candragupa I) đó là năm 320 tây lịch. Vương triều này lúc khởi đầu chỉ là tên của vị Thổ vương có tính thế tập, sau đổi thành quân vương.

Ở phương bắc vương triều Quí Sương bị diệt vong vào năm 320 tây lịch, trong khi ở phương nam vương triều Án Đạt La bị bại vong vào năm 326 tây lịch. Thay vào đó là sự đại hưng của vương triều Cấp Đa.

TIẾT II. PHẬT GIÁO VỚI VUA CA NỊ SẮC CA.

- Phật Giáo trong thời gian ba trăm năm.

Lịch sử Ấn Độ tính từ thời vua A Dục đến thời vua Ca Nị Sắc Ca có hơn ba trăm năm, trong khoảng thời gian này, kết luận dù là tôn giáo hay chính trị, lịch sử Ấn Độ cớ hồ như tờ giấy trắng vì chẳng có sự ghi chép nào cả! Về mặt sử học, trong thời cận đại nhờ có sự khai quật mới phát hiện những di vật của thời cổ đại, nhờ vậy mới khảo sát, cùng lợi dụng các thứ tư liệu vừa gián tiếp và lờ mờ để qua đó đối chiếu, so sánh và thẩm tra rồi đi đến kết luận một cách đại lược. Phật Giáo trong thời kỳ này theo Lữ Trường, ông dựa vào bộ Phật Giáo Ấn Độ của Địch Nguyên Vân để biên soạn bộ Ấn Độ Phật Giáo Sử Lược, mà một thiên của chương một, tiết bảy, có hai đoạn nói tới thời gian này đại loại có năm khu vực:

- Phương nam thịnh nhất là Tích Lan.

- Tiếp đó là Ma Lạp Bà (Malava) thuộc Tây nam Ấn Độ.

- Thứ nữa là Tín Độ ở tây bắc Ấn Độ.

- Tương đối thịnh là Ca Thấp Di La và Kiền Đà La thuộc bắc Ấn Độ.

- Ở đông bắc Ấn Độ là phạm vi của Kỳ Na giáo rất mạnh.

Như ta biết, sự phục hưng của Bà La Môn giáo đầu tiên là tại trung Ấn Độ. Từ sau khi vương triều Án Đạt La tiêu diệt vương triều Ma Kiệt Đà, lúc ấy tư tưởng Phật Giáo Đại Chúng Bộ của phương nam mới đến được trung Ấn Độ, và rồi theo chân triều Án Đạt La mà tiến vào tây Ấn Độ, khiến Phật Giáo Hữu Bộ của tây Ấn cũng cảm nhiễm tư tưởng của Đại Chúng Bộ, cho nên sự xuất hiện của Sư Kinh Lượng Bộ ở tây Ấn không phải là ngẫu nhiên. Nhân vụ tại trung Ấn xảy ra pháp nạn nên có một bộ phận học giả của Thượng Tọa Bộ ở đông nam Ấn phải lánh nạn vào nam Ấn Độ, tại đây họ tiếp xúc tư tưởng của Đại Chúng Bộ mà hình thành Phân Biệt Bộ rất tiến bộ. Lệ như Hóa Địa Bộ và Pháp Tạng Bộ lấy thành Ba Tra Li Tử làm trung tâm, Pháp Tạng (tức Đàm Vô Đức Bộ) có mang sắc thái Mật giáo, ấy là do tiếp thụ ảnh hưởng của văn hóa Án Đạt La, do đó cho nên dưới thời vua A Dục có sự bất đồng giữa Pháp Tạng Bộ và Phân Biệt Bộ, cũng thế lúc Pháp Tạng Bộ truyền đến Tích Lan lại bất đồng với Phân Biệt Thượng Tọa Bộ.

Trong giai đoạn này, vùng đất căn cơ của Bà La Môn giáo sơ kỳ là tại tây Ấn và bắc Ấn; bởi tại trung Ấn thế lực Phật Giáo đang thịnh hành, vì là thời trị vì của vua A Dục. Nên Phật Giáo phản đối sự chiếm lĩnh của Bà La Môn giáo, do vậy, Bà La Môn giáo hướng về nam Ấn, và hình thành tín ngưỡng của dân tộc Án Đạt La. Rồi cũng do sự hỗn hợp giữa Bà La Môn giáo với văn hóa Án Đạt La mà sản sinh ra tân Bà La Môn giáo - đó là phái Thấp Bà. Lại nữa, cũng do vương triều Án Đạt La đến trung Ấn. Nhờ vậy. Phật Giáo tại trung Ấn lại hưng thịnh hẳn lên.

- Riêng tại Tích Lan, sách này sẽ dành một thiên để giới thiệu.

Phương diện hiểu biết về Án Đạt La rất giới hạn, duy chỉ có một hệ của Hữu Bộ ở phương bắc còn lưu lại điển tích, do đó sẽ giới thiệu vấn đề này.

- Vua Ca Nị Sắc Ca và những việc làm của ông.

Tên tuổi vua Ca Nị Sắc Ca được thấy trong các ghi chép của Phật Giáo, và được truyền đến Tây Tạng và Mông Cổ. Năm 1909, bác sĩ Tư Ban Nội (Dr. Spooner) khai quật được một hòm xá lợi Phật tại tây bắc Ấn Độ, trên nắp hòm có khắc tên vua Ca Nị Sắc Ca, điều đó chứng thực rằng ông là người có thực trong lịch sử Ấn Độ cổ đại; mặt ngoài hòm xá lợi có khắc tự dạng “Nạp Thọ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ”, như vậy cho thấy ông là người hộ pháp của Phật Giáo Hữu Bộ.

Căn cứ nét hoa văn trên tiền đúc dưới thời trị vì của vua Ca Nị Sắc Ca mà khảo sát, thì vua lúc về già mới tín phụng Phật pháp. Tiền tệ được phát hành vào thời kỳ đầu dưới thời ông, về hình sắc mà nói thì rất đẹp. Chữ Hy Lạp được khắc chạm lên tiền đồng, và khắc cả tượng thần Nhật Nguyệt nữa. Lần phát hành tiếp theo ông lại dùng Ba Tư ngữ thuộc cổ văn Hy Lạp để khắc lên tiền đúc, đồng thời cũng khắc tượng thần được các dân tộc như Hy Lạp, Ba Tư và Ấn Độ tôn thờ lên tiền đúc, nhưng chưa thấy khắc tượng đức Thích Ca.

Phật Giáo tại Ca Thấp Di La và tại Kiền Đà La phải đợi đến cuối thời vua A Dục mới được xiển dương hoằng hóa, và do hoàn cảnh đặc thù mà Phật Giáo tại đây dần dà trở thành một hệ riêng, mang nặng tính tuyển thuật phong phú về luận điển, và coi trọng thiền dịnh, do đó cho nên sau này các luận sư, thiền sư cũng như mười chín học giả đều xuất từ hệ này. Khi đã có nhiều luận sư, thì điều không thể tránh là giữa họ xảy ra tranh luận với nhau; vì vậy, vua Ca Nị Sắc Ca đối với Phật Giáo là một vị vua có công đưc cực lớn, đó là việc ông xúc tiến cuộc kết tập lần thứ tư thành công. Có ba truyền thuyết nói về lần kết tập thứ tư:

1. trong Đại Đường Tây Vực Ký quyển ba(4), Huyền Trang chép:

Nhân việc vua lấy đạo hỏi người, mỗi người giải đáp khác nhau, vua bèn đem việc ấy hỏi Hiếp Tôn giả. Tôn giả đáp:”Sau khi Như Lai diệt độ, qua nhiều năm tháng, chúng đệ tử Phật chấp theo Bộ phái mình, khiến lời dạy của Phật được giải thích theo sự “kiến văn” khác nhau của mỗi Bộ, kết quả dẫn đến mâu thuẫn nhau”. Nghe xong, nhà vua vô cùng xót xa, đau đớn, ông liền phát tâm và truyền lệnh triệu tập chư vị thánh triết đến dự cuộc kết tập. Đại chúng trong đại hội kết tập đồng lòng thỉnh Bồ Tát Thế Hữu làm thượng chủ. Cuộc kết tập lần lượt tiến hành các việc như: tạo luận, giải thích kinh, luật mỗi thứ có đến mười vạn bài tụng. Cộng cả thảy có ba mươi vạn bài tụng với chín trăm sáu mươi vạn lời (9.600.000) chú thích đầy đủ tam tạng.

2. Truyện Bà Tẩu Bàn Đậu(5)Pháp sư chép:

Sau Phật nhập diệt năm trăm năm, có ngài La hán Ca Chiên Diên Tử xuất gia với Bồ tát Bà Đa, ngài cùng năm trăm vị La Hán và năm trăm vị Bồ Tát cùng nhau tuyển tập bộ A Tỳ Đạt Ma cho Bộ phái Tát Bà Đa.

3. Vấn đề này được truyền tại Tây Tạng:

Tại nước Ca Thấp Di La có vua Ca Nị Sắc Ca cúng dường tịnh xá Nhĩ Lâm, dùng nơi này để triệu tập năm trăm vị La Hán, năm trăm vị Bồ Tát, và năm trăm học giả tại gia, thỉnh cầu họ kết tập lời Phật. Từ đó về sau những thuyết của mười tám Bộ được chứng nhận đúng là lời Phật dạy. Lại cho ghi chép luật thành văn tự, những kinh, luận nào trước đây chưa được viết thành văn, thì nay cũng được viết đầy đủ.

Trong ba thuyết vừa nêu, thì Đại Đường Tây Vực Ký chỉ lấy ngài Thế hữu xưng là Bồ Tát. Trong khi Thế Thân truyện lại ghi có năm trăm vị Bồ Tát và Tây Tạng thì gia thêm năm trăm vị học giả tại gia. Như vậy, có thể hình dung lần kết tập này thông hàm tất cả những điều Phật dạy. Thực ra, lần kết tập thứ tư này là của Nhất Thiết Hữu Bộ, vì trong ba thuyết trên chỉ có thuyết của Đại Đường Tây Vực Ký là đủ độ khả tín. Thành quả của lần kết tập này là sự xuất hiện của luận Đại Tỳ Bà Sa với hai trăm quyển, và bộ luận này hiện vẫn còn trong tạng luận, trong đó còn lưu giữ tự dạng thời vua Ca Nị Sắc Ca. Nếu xét về nội dung, bộ luận Đại Tỳ Bà Sa đã qua nhiều tăng bổ của hậu nhân.

- Ngài Mã Minh với vua Ca Nị Sắc Ca.

Theo những gì được truyền tại Trung Quốc cũng như tại Tây Tạng, thì giữa vua Ca Nị Sắc Ca và ngài Mã Minh (Asvaghosa) đều có liên quan với nhau. Truyền rằng, khi vua Ca Nị Sắc Ca tấn công nước Ma Kiệt Đa, dân nước này địch không nổi bèn lấy bình bát của đức Phật ra cung hiến và nhờ Bồ Tát ngài Mã Minh đứng ra cầu hòa. Lại nữa, theo Đại Trang Nghiêm Luận, thì ngài Mã Minh là người viết bài “Qui Kính Tự” trong đó có câu “Phú Na Hiếp Tỳ kheo, ngã đẳng giai kính thuận” (Ngài Hiếp Tôn Giả Tỳ kheo Phú Na, chúng con xin cung kính qui thuận). Qua đó cho thấy dưới thời trị vì của vua Ca Nị Sắc Ca, ngài Mã Minh là đệ tử của Hiếp Tôn Giả, truyền thuyết cũng nói đến vua và ngài Mã Minh đều thờ Hiếp Tôn Giả làm thầy. Theo “Thế Thân Truyện(6)thì “Mã Minh viết một mạch trong mười hai năm xong bộ luận Tỳ Bà Sa, với một trăm vạn bài kệ”. Theo truyền thuyết này thì Mã Minh là người trước tác luận Đại Tỳ Bà Sa. Sự thực thì Mã mInh là một đại văn hào của thời đại ông mà thôi, và ông là người nhuận sắc Luận Đại Tỳ Bà Sa, chứ ông không phải là sư của Bà Sa. Vì trong “Đại Trang Nghiêm Kinh Luận - Qui Kính Tự”, ông tỏ rõ một mực qui kính các ngài: Phú Na, Hiếp Tỳ kheo, Di Lặc (Hóa Địa Bộ), Tát Bà Thất Bà (Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ), Ngưu Vương Chánh Đạo Giã (tức Kê Dẫn Bộ) v.v...

Bất luận thế nào, trong quá trình kiến quốc vua Ca Nị Sắc Ca là người mở thông Bộ giữa hai nước Ấn Độ và Trung Quốc. Khi về già ông là vị vua tích cực hộ trì Phật Giáo. Cũng nhờ đó mà Phật Giáo có đủ thời gian truyền đến các dân tộc trong vùng. Buổi đầu Phật Giáo đến được Trung Quốc là do đường bộ từ Tây Vực mà đến. Vì vậy, khi nói đến công đức vua Ca Nị Sắc Ca, ta có thể sánh công đức của ông ngang với vua A Dục.

- Pháp nạn tại Ấn Độ.

“Vật cực tắc phản” tựa hồ như đấy chính là qui luật thép của thế gian pháp! Theo Sử thư Ràjatanginì của Ca Thấp Di La thì hai vị vua của vương triều Quí Sương trước thời vua Ca Nị Sắc Ca, đều là những vị vua hộ pháp và có kiến trúc tăng viện, Chi Đề (tháp thờ xá lợi) rất nhiều, khi vua Ca Nị Sắc Ca lên ngôi thì Phật Giáo tại Ca Thấp Di La lại càng hưng thịnh hơn, và có phần áp đảo tín ngưỡng Thấp Bà của Bà La Môn giáo, bấy giờ tại Ca Thấp Di La, Phật Giáo bị tộc người Thổ Bang Long (Nagà) phản đối bằng cách sát hại Phật Giáo đồ một cách bừa bãi. Vua Ca Nị Sắc Ca cũng từng gặp phải sự bất ổn này nên đành tránh né.

Bấy giờ có Bà La Môn là Cam Đà La Đề Bà (Condradeva) nổi lên trấn áp Phật Giáo. Đến vua Chiên Đà La (Gonada) đời thứ ba mới chận đứng được sự đàn áp Phật Giáo. Đại Đường Tây Vực Ký quyển ba(7)cũng chép:

Sau khi vua Ca Nị Sắc Ca qua đời, giống người Ngật Lợi Đa lại tự xưng vương, họ bài xích và xô đuổi tăng đồ, hủy hoại Phật pháp, về sau nhờ có Tứ Ma Đát La thuộc tộc Thích Ca của nước Đồ Hóa La giết chết vua Ngật Lợi Đa, Phật Giáo nhơn đó được phục hưng.

Nhờ cả hai sách vừa dẫn đều được ghi giống nhau, do đó có thể đủ để tin là sau khi vua Ca Nị Sắc Ca qua đời chắc chắn là có việc thổ vương theo Bà La Môn giáo, nổi lên hủy diệt Phật Giáo.

- Ảnh hưởng sau Pháp nạn.

Theo pháp sư Ấn Thuận, sau pháp nạn tại trung Ấn, Phật Giáo tại Trung Ấn đi đến ba kết quả.

1. Vội vàng chạy theo ngoại diên, đánh mất sự thuần chơn:

Cảm nhận từ giáo nạn đưa đến lãnh vực nhận biết về tôn giáo thế giới, mà trước tiên không còn tôn trọng chính tôn giáo mình, không chịu củng cố cái gốc của mình, và không chịu làm sạch nguồn mạch của tôn giáo mình. Ngược lại ngày càng vọng ngoại, cho đấy là tùy phương ứng hóa. Tuy những suy nghĩ như thế bị Đức Thích Tôn bác bỏ, cũng không nên tiếc rẽ việc tùy phương ứng hóa, cho đó là phương tiện, dù vẫn biết phải thích ứng với hoàn cảnh để vượt qua giáo nạn, và khỏi bị diệt vong, còn cho đó là sức mạnh mà đánh mất chơn thuần của Phật pháp thì không nên.

2. Tin về Phật pháp bị tiêu diệt được loan đi, tạo nên tâm lý chán nản:

Chánh pháp trụ thế cả nghìn năm, và được truyền bởi kinh, luật từ xưa trước, lấy đó mà hình dung sự trường tồn Thánh giáo tại thế gian, chứ chẳng nên nhìn thấy việc người bị sát hại mà cho rằng chánh pháp cũng nhân đó mà bị diệt theo. Chính vì thế mà đức Phật chế định giới luật có công năng nhiếp tăng (giữ cho tăng sĩ thanh tịnh). Nhưng cũng từ giáo nạn, cổ nhân hứng khỏi niềm bi cảm mà than “Thiên niên pháp diệt”. Pháp diệt do lòng bi cảm không đồng với pháp diệt do chính đức Phật dự đoán. Bởi khi khởi niệm bi cảm như thế, thì phong cách hùng biện của Phật Giáo liền bị tiêu tan, sự suy vong không có gì nguy hơn là”tâm tử” (chết từ trong lòng), quả đúng là điều không htể nói hết.

3, Nhờ Phật tử tự lực đứng vững và cầu sự hộ pháp của vua quan từ bên ngoài:

Trước giờ người Phật tử tự coi mình rất cao đó là không cần cậy sự trợ giúp từ sức mạnh chính trị, cũng không bị câu thúc bởi sức mạnh chính trị. Nhưng sau pháp nạn, người Phật tử cảm thấy tự lực không thôi không đủ để duy trì việc hộ pháp. Mà cho rằng Phật pháp cũng cần sự ngoại hộ của các vua, quan. Nhưng tăng đoàn thanh tịnh, và Phật pháp được lưu bố là do tự lực, nhưng cũng cần có ngoại lực trợ duyên. Thánh điển chép là có thiên long hộ trì, đó là muốn nhấn mạnh: hãy tự lực đi rồi sẽ cảm đến ngoại lực. Như vậy là cần sự trợ giúp chứ không bỏ qua sự trợ giúp. Sau giáo nạn, tư tưởng hướng vào ngoại lực trợ giúp ngày càng đậm thêm, làm lộ ra sự cầu cạnh không mấy thanh cao.

TIẾT III. NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ.

Sự quan hệ giữa Tôn giáo và Nghệ thuật.

Định nghĩa thế nào là nghệ thuật, phạm vi của nó có thể nói người này khác người kia, nhưng theo quan niệm phổ thông thì nghệ thuật là chỉ cho: kiến trúc, điêu khắc, đồ họa, âm nhạc và các tác phẩm văn học. Ở thời hiện đại này người ta lấy khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, phân ra từng lĩnh vực để giới thuyết. Và đưa ra nhận định: khoa học chủ đích là nhắm đến cái chân, chủ đích của tôn giáo là Thiện, và của nghệ thuật là Mỹ. Thực là không hẳn là như vậy, đứng trên quan điểm nghệ thuật có thể chia thành nghệ thuật khoa học, nghệ thuật tôn giáo và nghệ thuật của nghệ thuật. Trong thời cận đại có người đưa ra quan niệm dùng nghệ thuật sáng tạo nghệ thuật; như vậy, việc truy tầm di tích cổ đại của nhân loại có nhiều nghệ thuật phẩm hết sức vĩ đại, nhưng có rất ít các nghệ thuật phẩm tách khỏi nghệ thuật tín ngưỡng tôn giáo để độc lập phát sinh tồn tại. Riêng về kiến trúc, thì những kiến trúc vĩ đại nhất trong thời cổ đại là ở Hy Lạp và Ai Cập. Đó là điện thờ thần và Kim tự tháp. Các công trình này cơ bản vẫn xuất từ tín ngưỡng tôn giáo. Thời cổ đại ở Trung Quốc có kiến trúc lớn nhất là Minh Đường.

Sách Lễ Ký của Trung Quốc có thiên chép về “Minh Đường vị”. Minh Đường là gì? Là nơi các bậc đế vương trong thời cổ đại của Trung Quốc dùng vào việc bái thiên, tế thổ, hành chính và phổ biến giáo dục.

Về điêu khắc, những tác phẩm điêu khắc trong thời cổ đại hiện còn, phần nhiều là các tượng thần mang tính tôn giáo, đôi khi cũng có tượng người nhưng cũng sản sinh từ đức tin tôn giáo. chẳng hạn “Sử Ký - Chu Bản Kỷ” chép “Chu Võ Vương vì Văn Khương mà làm mộc chủ (còn gọi là thần chủ) rời chở đi thảo phạt”. Đấy là nói lúc Võ Vương đi thảo phạt, ông dùng xe chở tượng Văn Vương được làm bằng gỗ đi cùng, tượng gỗ được coi là đại biểu cho Văn Vương. Việc làm này khiến cho người đời sau theo đó tô vẻ di tượng người trước, và chế tác ra bài vị tổ tiên để thờ cúng.

Ngay như âm nhạc, thời cổ đại người ta dùng âm nhạc vào các lễ nghi tôn giáo, dần dần người ta sử dụng âm nhạc vào các cuộc vui chơi, hoặc đệm cùng thi ca để xướng tụng các thần, không sự kiện nào là không dùng dến âm nhạc. Còn có loại âm nhạc chuyên dùng cho việc vui chơi nhảy múa. Như chúng ta biết, Vệ Đà của Ấn Độ trước tiên dùng những vần thơ mỹ miều để ca tụng thần minh. Bích họa trong các di tích cổ dại, người ta phát hiện thấy các nhân vật thần thoại đang trong tư thái nhảy múa trông đẹp một cách dị thường. Ngày nay vẫn còn một số vùng mà ở đó thổ dân vẫn còn lạc hậu, họ sử dụng âm nhạc để khiêu vũ, ca xướng coi đó là cách thức để tế thần và tạ thần.

Vì thế, mà xã hội loài người từ thời cổ đại đã biết sáng tác nghệ thuật mà nền tảng của nó đại để xuất phát từ tín ngưỡng tôn giáo.

Đương nhiên về tính chất, thì giữa tôn giáo và nghệ thuật là không tương đồng, bởi tôn giáo là do tín ngưỡng, trong khi nghệ thuật thông qua sự biểu hiện, có tín ngưỡng rồi sau mới có tôn giáo. Tôn giáo đem lại cho người ta cảm tưởng là mình được vĩnh viẽn an toàn; trong khi nghệ thuật chỉ biểu hiện “cái có” của đương thời, hoặc niềm hân hoan đương tại cảm thú về cái đẹp.

Do đó, sự thành kính đòi hỏi tín đồ của tôn giáo phải đạt đến trình độ tương đương, có thể họ không có nhu cầu nghệ thuật trong sinh hoạt tín ngưỡng, nhưng họ phải luôn giữ tâm họ bình tĩnh an lạc; cũng có hạng người nhờ vào phương pháp nghệ thuật làm môi giới để từ đó đi vào tín ngưỡng tôn giáo. Vì thế, tôn giáo không nhất thiết phải cần đến nghệ thuật, nhưng sự biểu hiện của nghệ thuật có thể dẫn đường để con người đến tôn giáo. Đìều này, về phương diện tư tưởng của Phật Giáo mà nói là phù hợp sự thực.

* Bản chất Phật Giáo đối với nghệ thuật có thuận nghịch. Thứ nhất, Phật Giáo nguyên thỉ chỉ chú trọng việc tu trì, và giải thoát, không có thì giờ nhàn hạ để nghĩ đến nghệ thuật: người người có hiểu biết Phật pháp đều biết rằng một Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo ni, họ không được theo đuổi công tác nghệ thuật.

Vì là tất cả mọi hiện tượng được sản sinh từ pháp duyên sinh, đã là duyên sinh thì không thực, mà chỉ là quang ảnh của sự giả hữu và tạm hữu, cho nên có gì đâu phải coi trọng, đồng thời tìm cách giải thoát tâm tham luyến, tâm ưa thích muốn chiếm hữu quang ảnh; người tu đạo nếu không thoát khỏi sự trói buộc của ảo ảnh, người đó sẽ không đạt lợi ích thực sự trong việc tu hành. Vì vậy, trong giáo nghĩa nguyên thỉ, không giáo nghĩa nào không cảnh giác con người hãy mau chóng thoát khỏi nghiệp sinh tử. Khẩn cấp cầu pháp giải thoát. Tất nhiên hiện tượng mà tôn giáo tín ngưỡng đưa đến phải là cảnh giới tương đương. Đặc biệt là Phật Giáo, nhân duyên quan lưu lộ từ bi trí của đức Phật, giúp chúng ta biết được sự sinh tồn của con người và vạn hữu giữa thời gian và không gian, đó chẳng qua chỉ là sự tồn tại tạm thời của thân tâm do ngũ ấm giả hợp, rốt cuộc cũng qui về hoại diệt, vì thế, chớ nên để vật chất bên ngoài như thanh, sắc v.v... làm cho mê hoặc, trong khi sự biểu hiện của nghệ thuật lại rất cần sự môi giới của thanh sắc.

Tóm lại, trong thời đức Phật tại thế, cố nhiên trong việc giáo hóa nhân gian, đức Phật chưa từng phản đối nghệ thuật, nhưng nghệ thuật đối với việc giáo hóa của Ngài cũng không được trọng thị một cách tích cực. Vì rằng, kiếp nhân sinh có là bao, thọ mệnh vô thường, sáng không thay được chiều. Cầu xuất biển khổ sinh tử là việc cần kíp như cứu lửa trên đầu, vậy lấy đâu ra thời gian nhàn hạ để theo đuổi công tác nghệ thuật? Do đó cho nên trong thánh điển Phật Giáo nguyên thỉ phải đợi đến khi khai quật và phát hiện di chỉ Phật tích của Ấn Độ cổ đại, ghi là sau Phật nhập diệt hơn hai trăm năm, thuộc dưới thời vua A Dục, nghệ thuật Phật Giáo mới xuất hiện. Việc khai quật diễn ra cách thời đại đức Phật quá xa, nó vượt quá sức tưởng tượng, sức dự đoán của tín đồ đối với thánh cách của đức Phật. Đồng thời nó cũng cho thấy Phật Giáo dưới thời vua A Dục cũng chịu ảnh hưởng văn hóa của các tôn giáo khác, rồi dần dà mới dùng thanh, sắc làm công cụ để biểu đạt nghệ thuật Phật Giáo. Do đó, những tác phẩm ở thời kỳ đầu được ra đời không do nhu cầu thưởng thức nghệ thuật, mà là tượng trưng cho nhu cầu tín ngưỡng.

- Thứ hai, quan niệm nghệ thuật từ Tiểu thừa đến Đại thừa Phật Giáo: Ở đây, điều đầu tiên cần nói rõ là vào thời đức Phật tại thế, chưa có việc phân chia Tiểu thừa, Đại thừa, bởi Phật pháp là “nhất vị”. Nhưng do căn khí của hàng đệ tử không đồng nhất, cho nên việc tiếp tục lý giải lời dạy của Phật là có khác nhau. Do đó, tùy đối tượng mà đức Phật giảng thuyết; với hàng xuất gia, Ngài chú trọng giảng về pháp ly thế, xuất thế, với hàng đệ tử tại gia, sự thuyết giảng của Ngài nghiêng về hòa thế, lạc thế; tuy mục tiêu vẫn là nhắm đến cảnh giới Niết bàn giải thoát. Nhưng, thường thì đức Phật chú trọng đến hàng đệ tử xuất gia. Sau khi Phật diệt độ, lần kết tập (biên tập) kinh Phật thứ nhất, hoàn toàn do các vị xuất gia đảm trách. Cho nên trong thánh điển Phật Giáo nguyên thỉ khó mà tìm ra được đâu là dấu hiệu của tư tưởng Đại thừa. Vì thế, trên nguyên tắc không cần phải đinh ninh là tại sao kinh điển nguyên thỉ chỉ thiên trọng Tiểu thừa.

- Nhưng, được gọi là Phật Giáo Tiểu thừa, điều này không xuất hiện dưới thời Phật tại thế, mà chỉ xuất hiện sau Phật nhập diệt. Nguyên do là vì tăng đoàn xuất gia chịu ảnh hưởng văn hóa khác nhau theo từng địa vực mà họ hoằng hóa, nên đối với giáo pháp của Phật, mỗi mỗi tăng đoàn có sự lý giải không tương đồng, từ đó đưa đến việc phân xuất nhiều Bộ phái. Tiểu thừa Phật Giáo, ấy là Bộ phái Phật Giáo. Việc phân phái đầu tiên là phân thành Lão Tỳ kheo phái thuộc Thượng Tọa Bộ và Thanh niên Tỳ kheo phái thuộc Đại Chúng Bộ. Sau đó từ Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ lại phân ra thành nhiều Bộ phái, theo giới thiệu của luận Dị Bộ Tông Luận, có tất cả hai mươi Bộ phái; từ ngữ Bộ phái tương đương với danh từ Tông phái của Trung Quốc, hoặc danh từ học phái của Hy Lạp. Trong số các Bộ phái thuộc
Tiểu thừa Phật Giáo, thì tại nam Ấn Độ có các Bộ phái của Đại Chúng Bộ, và tại tây bắc Ấn Độ có Nhất Thiết Hữu Bộ của Thượng Tọa Bộ truyền bá tại đây, và tư tưởng càng tiến bộ; do họ tôn trọng việc giáo hóa Phật pháp đến sinh họat của giới tín đồ tại gia, một lần nữa Phật Giáo Nhất Thiết Hữu Bộ phục hưng, ấy là Đại thừa Phật Giáo. Đại Chúng Bộ của nam Ấn Độ cũng là Tiểu thừa, nhưng từ từ cũng dung nhập vào lĩnh vực Đại thừa. Nhất Thiết Hữu Bộ của tây bắc Ấn Độ cũng từ trong tăng đoàn Tiểu thừa mà sản sinh rất nhiều bậc tông sư của Đại thừa (vấn đề này xin đọc thêm ở chương tám của sách này).

Như chúng ta biết Phật giáo Đại thừa thiên về “hòa thế lạc quần” (chan hòa vào thế tục, làm lợi lạc quần sinh). Tinh thần Đại thừa là hạnh nguyệt tự độ, độ tha của Bồ tát. Hạnh Bồ tát và pháp thế tục, về mặt biểu hiện không có gì sai biệt, chỉ khác chăng là tâm niệm độ sinh mà thôi. Hạnh Bồ tát là dấn thân vào đời để giáo hóa độ sinh, trong khi pháp thế tục vẫn lưu chảy trong cuộc sống thế tục và không khác thế tục (tức cứu đời). Vì thế, con đường của Đại thừa Bồ tát tuy bên ngoài biểu hiện những việc làm có tính cách thế tục, nhưng hàm ẩn bên trong pháp môn tu giải thoát vô cùng vĩ đại.

Hẳn nhiên khi đã “nhập tục hóa tục”, điều cần yếu là phải thực hiện đồng sự nhiếp trong Tứ nhiếp pháp, ấy là trước phải tùy thuận dục lạc của chúng sinh để lần lần dẫn dắt chúng sinh chúng sinh về với chánh đạo của Phật. Riêng về phương diện này, nghệ thuật Phật giáo cũng cần rất nhiều nhu yếu. Do đó, sự tiến bộ của các Bộ phái Tiểu thừa còn lưu truyền trong Thánh điển Phật giáo, cho chúng ta thấy về nghệ thuật hội họa và điêu khắc.

Trong bộ Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự, quyển hai(8), tuy có qui định Tỳ kheo không được sáng tác hội họa, nhưng nếu họa tử thi, hoặc đầu lâu thì không phạm. Tỳ Nại Da quyển ba mươi tư, được truyền tụng bởi Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ(9)có ghi là, đối với cửa của các chùa được phép họa các bích họa như: vẽ tranh về sinh tử luân hồi, tranh minh họa cảnh địa ngục, cảnh thiên nhiên hay cảnh tượng Phật; vẽ chim bồ câu để biểu thị sự tham dục, vẽ hình độc xà để biểu thị sự sân nhuế, vẽ hình lợn để biểu thị sự ngu si, và cũng được phép vẽ tướng sinh diệt thuộc mười hai pháp duyên sinh.

Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Mục Đắc Ca quyển tám(10)có chép: nếu bức bích họa có sắc màu cũ kỹ không còn sáng đẹp, thì Tỳ kheo được phép tô vẽ lại.

Kinh Thế Ký trong kinh Trường A Hàm của Thượng Tọa Bộ được truyền bởi Pháp Tạng Bộ(11), đã hoàn toàn dùng thủ pháp nghệ thuật để miêu tả các thứ cảnh giới trên cung trời, ở cõi nhân gian, cõi địa ngục và thần đạo. So với những bộ phái khác, sự xuất hiện của Pháp Tạng Bộ có phần muộn hơn, cũng nhờ đó mà Pháp Tạng Bộ tiếp cận với Đại thừa nhiều hơn; vì thế nên Tứ Phần Luật là bộ lụât được Pháp Tạng Bộ truyền tụng.

Ngài luật sư Đạo Tuyên - vị sơ tổ của Luật tông Tung Quốc cho rằng Tứ Phần Luật cũng có “phần thông Đại thừa”. Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển hai mươi tám(12)chép việc vua Chơn Điền lệnh cho thợ khéo giỏi “dùng gỗ Ngưu Đầu Chiên đàn để chế tác hình tượng đức Phật, với chiều cao năm thước”.

Trong thánh điển Đại thừa, không khí nghệ thuật Phật giáo dương nhiên là thêm phần nồng hậu. Cho dù là vậy, nhưng trong kinh Đại Bát Nhã quyển 327 - Phẩm Sơ - Phần Bất Thối Chuyển(13)chép là Bồ tát “ đối với văn chương, kỹ nghệ thế gian, tuy có được thiện xảo (khéo léo tài giỏi) nhưng cũng không vì thế mà ái trước”, vì chúng thuộc về “Tạp uế ngữ”, và “tà mạng sở nhiếp”.

Ở dây, chúng ta cần nêu ra các sáng tác phẩm của nghệ thuật Phật giáo; cố nhiên các tác phẩm ấy là nhằm tiếp dẫn tín đồ, và biểu đạt sự nhiệt thành tín ngưỡng của họ, trong đó, vẫn có nhân tối ngoại tại. Nhân vì các dân tộc bản địa ở nam Ấn Độ cũng đã có nền văn hóa và tín ngưỡng đặc biệt của riêng họ; họ sùng bái rất nhiều thứ và dần dà mới tiến tới sùng bái ngẫu tượng thần minh. Phật giáo vì muốn hóa độ thổ dân tại chỗ, nên cũng sử dụng phương thức tùy thuận theo tập quán của họ, ấy là đúc các tượng thần hộ pháp cho Phật giáo. Vì vậy, ngẫu tượng tối sơ mà Phật giáo có được không phải là tượng Phật, tượng Bồ tát, mà là tượng thần minh, tượng thiên nhân hộ pháp.

Tại tây bắc Ấn Độ, do bị thế lực chánh trị của người Hy Lạp xâm lấn xuống nam Ấn; đồng thời họ cũng mang văn hóa Hy Lạp đến Ấn Độ. Như chúng ta biết, A Lịch Sơn Đại (Alexander) tuy là người không rời lưng ngựa, nhưng mục đích xâm nhập Ấn Độ của ông vào năm 326 trước Công nguyên là nhằm đem văn minh Hy Lạp đến Ấn Độ. Năm 160 trước Công nguyên, lại có một vị tướng Hy Lạp mang quân xâm nhập Ấn Độ, và chiếm cứ các vùng đất miệt thượng du sông Hằng. Đó là vua Di Lan Đà được chép trong kinh Na Tiên Tỳ Kheo. Chúng ta cũng biết trong thời cận đại, văn hóa phương tây được mở rộng, mà uyên nguyên của vấn đề là sự tái phục hưng nền văn minh Hy Lạp; tại bắc Ấn Độ cũng chịu sự kích thích của nền văn nghệ Hy Lạp. Đại biểu cụ thể nhất của việc ảnh hưởng này là tượng Phật điêu khắc mang phong cách nghệ thuật Hy Lạp, hiện còn sót lại tại địa phương Kiền Đà La.

- Liên quan đến tượng Phật của Ấn Độ.

I. THỜI PHẬT GIÁO NGUYÊN THỈ CÓ THỜ TƯỢNG PHẬT KHÔNG?

Vấn đề này được coi là có giá trị quan trọng. Đức Phật không hề chủ trương cho các hàng đệ tử Ngài tạo hình tượng Ngài để sùng bái, ít nhấ là về mặt hình thức. Đức Phật luôn lúc nào cũng dạy các hàng đệ tử phải thực tiễn tu tập theo thánh đạo giải thoát. Điều đó được biểu lộ qua sự thân cận giữa Ngài và đệ tử. Nếu không thực tiễn trong tu tập, thì chính mỗi người chẳng tu theo Thánh đạo của Phật, cho dù ngày ngày đều nhìn thấy tượng Phật cũng chẳng có chút ý nghĩa gì. Đồng thời, trong số những khai quật được giới khảo cổ học cận đại phát hiện, thì tại Ấn Độ từ thời vua A Dục trở về trước người ta chưa phát hiện có mối liên hệ nào về tượng Phật, hoặc di vật biểu thị cho nghệ thuật Phật giáo. Ấy vậy, nhưng trong những kinh, luật được truyền thừa bởi bộ phái Phật giáo, đều xác nhận là ở thời đại đức Phật đã có xuất hiện tượng Phật. Xin đơn cử một số kinh, luật:

1. Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển hai mươi tám(14)chép:

Việc đức Phật lên cõi trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẫu hậu, hàng tứ chúng đệ tử ở nhân gian trông ngóng mong được gặp lại Ngài với niềm khái niệmphi thường. Trong đó, vua Chơn Điền là người nhớ Phật thâm thiết nhất; ông nghĩ quả như ông không nhìn thấy Phật mà ông lại chết đi thì sao. Nhân đó mà vua nhận được kiến nghị của quần thần là hãy mời thợ điêu khắc tài giỏi dùng gỗ Chiên đàn để khắc chạm thành một tượng Phật tôn quí, cao năm thước. Tiếp đó, vua Ba Tư Nặc biết được biện pháp này, ông cũng mời thợ điêu khắc tài khéo dùng Tử Ma Kim thuần túy để tạo thành tượng Phật, cũng cao năm thước.

2. Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da(15), thì thuật rằng:

Nhân lúc đức Phật ngồi thuyết giảng giữa đại chúng, thì hàng đệ tử ai ai cũng oai nghi chỉnh túc. Nhưng lúc không có đức Phật, chúng đệ tử không mấy người được oai nghi. Vì thế, ông trưởng giả Cấp Cô Độc thỉnh thị đức Phật chuẩn hứa cho ông tạo một tượng Phật, và coi tượng Phật như là đại biểu cho Ngài ở trong đại chúng, khi vắng Ngài. Đức Phật đáp “tùy ý tương tác, trí ư chúng thủ” (tùy ý mà làm, nên đặt ở chỗ cao ngang đầu).

3. Cũng trong Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da, quyển bốn mươi lăm(16), có chép:

Về việc Ảnh Thắng của nước Ma Kiệt Đà muốn họa một tượng Phật để gởi vua Tiên Đạo ở thành Thắng Ân xa xôi. Nhà vua hướng về đức Phật để xin chỉ dạy. Phật đáp: “lành thay diệu ý, này đại vương, có thể họa một tượng Phật gởi đến vua kia”. Vả lại còn đưa ra qui định về cách thức họa tượng.

Từ các dẫn chứng trên, tuy là tứ thánh điển thuộc Phật giáo Bộ phái, nhưng chúng ta không thể nói Phật giáo chủ trương không lễ cúng tượng Phật. Lúc Phật tại thế, Ngài dùng thân giáo và ngôn giáo, sau khi Phật nhập diệt, thì lấy tượng giáo làm trung tâm tín ngưỡng. Phàm khi Phật giáo đã có hình tượng Phật có công dụng “hóa thế diệu tục” (giáo hóa thế gian, dẫn dắt người đời), đã thế thì không diều gì là không thuộc phạm vi tượng giáo.

II. SỰ XUẤT HIỆN TƯỢNG PHẬT.

Nếu căn cứ vào những phá hiện khảo cổ học cận đại, thì tượng Phật được phát hiện sớm nhất tại Ấn Độ là ở địa phương Tát Đặc Na thuộc nam Ấn. Đây là tác phẩm điêu khắc được tạo vào thời gian sau vua A Dục lên ngôi khoảng một trăm rưởi năm (tức 100 năm trước Công nguyên), ở thời đại vua A Dục tuy đã có tháp Phật, trụ đá và bia đá còn lưu lại, nhưng chưa thấy xuất hiện tượng Phật được điêu khắc. Việc lập tượng Phật tại địa phương Tát Đặc Na tuy thuộc về nghệ thuật Phật giáo, nhưng đó là phỏng theo hình tượng Dạ Xoa. Hình tượng Dạ Xoa này vốn là thần của thổ dân thuộc dân tộc Đạt La Duy Trà ở nam Ấn Độ, về sau thần được qui hóa thành vị thần hộ pháp của Phật giáo.

Phật giáo xưa nay vẫn luôn coi trọng việc kiến thiết nhân cách con người trong chiều sâu tinh thần nội tại. Và không mấy chú tâm đến việc sùng bái mang tính hình thức, chính vì thế mà Phật giáo nguyên thỉ không hề có nghi thức tế tự nào, cho nên không tạo ngẫu tượng để sùng bái. Tinh thần này được thiền tông Tung Quốc tôn trọng. Nhân vậy mới có câu chuyện thiền sư Đan Hà lấy tượng Phật gỗ bửa làm củi để sưởi ấm. Sau này, trong nhiều thiền đường của Tung Quốc cũng không thờ cúng tượng Phật. Bởi Phật vốn ở tại tâm, ngoài tâm không có Phật, tinh thần này cùng việc bài báng cho rằng Phật giáo chuyên sùng bái ngẫu tượng để nhằm so sánh việc sùng bái mộc đầu của Cơ Đốc giáo. Thực thì không có cách nào để tỉ dụ là tín đồ Cơ Đốc giáo không sùng bái ngẫu tượng, nhưng họ dùng thập tự giá thay cho ngẫu tượng và quỳ trước thập tự giá mà cầu nguyện. Như vừa trình bày trên, Phật giáo đồ vốn không thiết lập ngẫu tượng, nhưng càng về sau do khu vực giáo hóa của Phật giáo càng phát triển và mở rộng, nhân đó tiếp xúc với nhiều dân tộc có nền văn hóa khác nhau. Chẳng hạn như dân tộc Đạt La Duy Trà ở nam Ấn Độ, người Hy Lạp và người Nguyệt Thị xâm nhập vào bắc Ấn Độ, họ đều là những dân tộc sùng bái tượng thần. Khi dân tộc Trung Hoa tiếp thụ tín ngưỡng Phật giáo cũng kéo theo nhu cầu sùng bái tượng Phật. Như vậy ở thời kỳ đầu tại nam Ấn Độ, Phật giáo phỏng theo tượng thần Dạ Xoa để tạo tượng Phật cho nên trên đỉnh đầu tượng Phật không có nhục kế, và phần lớn là dùng sư tử làm tòa; về sau tại tây bắc Ấn Độ, Phật giáo phỏng theo tượng thần của người Hy Lạp để tạo tượng Phật, thì trên đỉnh đầu tượng Phật mới có tướng nhục kế, và dùng hoa sen làm tòa, tượng còn có cả râu tóc. Việc này diễn ra trước sau tây lịch bốn trăm năm, vì đó là thời kỳ thịnh hành nên nền nghệ thuật điêu khắc mang tên Kiền Đà la.

- Nghệ thuật điêu khắc của Phật giáo Ấn Độ

Đại loại có thể chia nghệ thuật của Phật giáo Ấn Độ thành bốn thời kỳ.

1. Từ vua A Dục đến vương triều Án Đạt La.

Không nghi ngờ gì, kỹ thuật điêu khắc của Ấn Độ vào thời đại đức Phật là đã có rồi. Nhưng nói về những di vật còn lưu lại đến ngày nay, thì những điêu khắc trên vách đá, trên trụ đá có từ thời vua A Dục được coi như những tác phẩm điêu khắc đầu tiên của Phật giáo Ấn Độ, kỹ thuật điêu khắc dưới thời vua A Dục là cực kỳ tinh xảo. Chẳng hạn như trụ đá được vua A Dục cho dựng tại vườn Nai (Lộc dã uyển), mà đầu trụ hiện nay còn lưu giữ tại Bác Vật Quán - Lộc Dã Uyển của Ấn Độ. Trụ cao bảy thước(17), đầu trụ là bộ điêu khắc bốn con sư tử, dưới sư tử là một cái trống, vành trống có phù điêu chạm hình bốn con thú là voi, ngựa, nai và sư tử, bốn đầu sư tử và bốn con thú trông rất có thần và cực kỳ sinh động. Chúng được mài dũa rất nhẵn, và đối với lịch sử nghệ thuật của thế giới, thì trụ đá này chiếm vị trí rất cao.

Hơn trăm năm sau thời vua A Dục, ước khoảng thế kỷ thứ hai trước Công nguyên có Bà Nhĩ Ha Đặc (Bhàrhut) và cửa thép Tang Khư (Sànõchi) mà đường nét điêu khắc trên trụ và lan can hiện vẫn còn. Cho thấy những chạm khắc sư tử, lực sĩ Kim Cang, Dạ Xoa và các nhân vật trong truyện tích xưa của Phật giáo v.v... là hết sức tinh xảo, thẩm mỹ.

Dù vậy, nhưng thời kỳ này vẫn chưa chính thức thấy xuất hiện tượng Phật, mới chỉ thấy hoa sen tượng trưng cho sự đản sinh của đức Phật, cây Bồ Đề tượng trưng cho sự thành đạo của đức Phật, lấy Luân Bảo tượng trưng cho sự thuyết pháp của Phật, và lấy Tháp Ba (Stùpa) tượng trưng cho Phật Niết bàn. Những điều vừa nêu trên thuộc về điêu khắc Phật Giáo của nam Ấn Độ.

2. Những điêu khắc tại địa phương Kiền Đà La:

Kiền Đà La nay thuộc A Phú Hãn (Afghanistan) và là địa khu của một tỉnh ở vùng tây bắc Ấn Độ. Tại khu vực này còn lưu lại nhiều di tích điêu khắc tượng Phật. Về tổng thể, nền điêu khắc tại khu vực này đã được thai nghén ước khoảng bốn trăm năm trước tây lịch, nhưng mãi đến thế kỷ thứ hai sau tây lịch nó mới được người Đại Nguyệt Thị dưới thời vua Ca Nị Sắc Ca của vương triều Quí Sương đưa đến cực điểm thịnh đạt. Nghệ thuật điêu khắc của thời kỳ này lấy tượng Phật, tượng Bồ tát làm chủ đề. Sử dụng kỹ thuật điêu khắc của người Hy Lạp để biểu hiện tín ngưỡng Phật giáo. Do đó, nếu lấy hình tượng của tượng Phật mà nói, thi người Hy Lạp là giống người có sống mũi cao, để nhiều râu tóc, dệt lông thú dày làm y sức. Như chúng ta biết, tinh thần cơ bản của Sa Môn là cạo bỏ râu tóc; tại lưu vực sông Hằng của Ấn Độ, Sa Môn cũng không được mặc áo dệt bằng lông thú để ngự hàn - chống rét.

Vương triều Án Đạt La là do người nam Ấn Độ kiến lập, và vương triều Quí Sương là do tộc người Đại Nguyệt Thị xâm nhập vào vùng tây bắc Ấn Độ sáng lập, nên lịch sử Ấn Độ gọi thời này là thời Nam - Bắc triều.

Chính là do hai nền văn hóa của các dân tộc ở bắc và nam kích hoạt khiến làm xuất hiện nghệ thuật điêu khắc Lan thuẫn(18)của đại tháp A Ma La Bà Đề (Amaràvat) ở trung Ấn Độ. Nghệ thuật điêu khắc Lan thuẫn này chịu ảnh hưởng của điêu khắc Kiền Đà La, nhưng vẫn giữ được thủ pháp thuần túy của Ấn Độ ở thời kỳ thứ nhất đến thế kỷ thứ hai tây lịch.

3. Điêu khắc của vương triều Cấp Đa:

Nền điêu khắc này mang sắc thái Hy Lạp pha trộn với văn hóa bản địa của Ấn Độ mà thành. Có được điều đó là nhờ sự bảo hộ và cổ vũ của vương triều Cấp Đa, và rồi đạt đến đỉnh điểm, thời gian là từ năm 300 đến 640 tây lịch. Đây là thời khai thác kỹ thuật điêu khắc tượng Phật của Kiền Đà La, và phát huy nguyên tắc điêu khắc của Ấn Độ cổ đại, cho nên nét đặc trưng của tượng điêu khắc trong thời kỳ này là có mặc y rất mỏng phụ thêm vào thân thể nhưng vẫn để lộ đường nét trạng thái bên trong rõ ràng qua việc sử dụng các đường gấp cực mảnh (mỏng), cả hai bên trái bên phải tượng đều khắc họa nếp gấp đường nết lộ rõ trên thân; nếu so với cách điêu khắc của Kiền Đà La vẫn có nhiều điểm khác nhau, như tượng điêu khắc ở thời kỳ thứ hai thì lưng tượng nhẵn, tròn đơn điệu chỉ như tấm ván tròn, gốc của thời kỳ này là lưng tròn hình vỏ đậu có phụ thêm hoa văn. Đầu và tóc của tượng Phật của thời kỳ này đa phần có hình xoán ốc; để có được tướng bạch hào, và tay chân có khuỷu, có mắt (mắt cá chân) cũng như ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân, biểu lộ tính từ ái một cách đoan chính, trang nghiêm thì thời kỳ thứ hai chưa thể có được. Điều đó phải chờ đến sự biểu thị tinh thần Đại thừa, giàu lý tưởng lợi tha. Chẳng hạn như tượng đức Phật chuyển pháp luân ở Lộc dã uyển, và tượng Phật được điêu khắc để thờ tại tịnh xá Động Quật ở A Khương Tha (Ajantà, còn gọi là A Xà Ân Đà) thuộc tây nam Ấn Độ, đấy là những tác phẩm điêu khắc đại biểu của thời kỳ này.

4. Nền điêu khắc Mật giáo:

Vào cuối thế kỷ thứ tám sau công nguyên, có vương triều Ba La tại địa phương Thiên An ở đông Ấn Độ ủng hộ Phật pháp và hết lòng tin Mật giáo. Tình hình đó kéo dài được năm trăm năm. Ở thời kỳ này tượng Phật, tượng Bồ Tát đều căn cứ theo giáo lý Mật giáo. Đối với tượng ngồi, tượng kiết ấn, tượng phóng quang, tượng mặc y phục, và các thứ dùng để trang sức để tượng thêm phần trang nghiêm, đều phải tuân theo qui định và tỷ suất nhất định. Một cách đại để thì hai mắt phải hướng lên như lưỡi câu, bộ hàm phải vuông rộng và hơi nhọn một chút. Đặc trưng nhất là tượng có nhiều mắt, nhiều tay.

Lại còn có quy định tùy theo (trong mỗi) nghi quĩ tu mật pháp như thế nào, thì dùng tượng Phật, tượng Bồ Tát sao cho phù hợp với đàn pháp đó.

Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Phật Giáo lớn nhất tại Ấn Độ còn lưu giữ đến nay, tọa lạc tại một bang thuộc tây bộ Ấn Độ đó là chùa Thạch Quật ở Hải Đức Lạp Ba thuộc địa phương A Khương Tha. Chùa được phát hiện vào đầu thế kỷ mười chín bởi một học giả người châu Âu là Kiệt Mỗ Tư (James Fegusson). Tại đây có cả thảy mười chín hang động, về niên đại khai mở của những điêu khắc tại các hang động này có thể chia làm ba thời kỳ:

1. Trước Công nguyên hai thế kỷ, cho đến sau Công nguyên từ 150 đến 200 năm.

2. Từ thế kỷ thứ IV cho đến nửa cuối thế kỷ thứ VI sau Công nguyên.

3. Hậu bán thế kỷ thứ VI đến đầu thế kỷ thứ VIII sau Công nguyên.

Trong cả ba thời kỳ này, bao quát có các thể loại được điêu khắc bằng đá như: tượng Phật, cửa đá, trụ đá v.v... Các học giả Nhật Bản và phương tây rất chú tâm nghiên cứu những tác phẩm điêu khắc trong các hang đá này.

- Phật Giáo Ấn Độ với nghệ thuật Kiến trúc.

Nền điêu khắc của các thời kỳ được tồn tại là nhờ kèm theo đó là các công trình kiến trúc. Nhân chỉ có di vật kiến trúc thời thượng cổ, tuy còn trong sự hư nát, và không biết dựa vào đâu để phục chế lại cho hoàn thiện như diện mạo vốn có của nó. Còn nói nhờ khảo cổ khai quật phát hiện, thì cũng chỉ có được cái gốc gác mà thôi. Kiến trúc Phật giáo đại loại có thể chia làm ba:

1. Tháp Bà (Stùpa):

Tháp Bà hay còn gọi là Tốt Đổ Ba (Stùpa). Từ tháp là cách gọi giản đơn, sự cấu thành của tháp có bốn bộ phận tính từ dưới lên, đó là: Cơ Đàn, Phúc Bát, Bình Đầu, Can tản v.v... Hình dáng của tháp còn tùy vào thời đại trước thời đại sau nên không giống nhau. Có tháp ở tại chu vi Bình đầu tạo thành một khán thờ Phật, có tháp lại đặt tượng Phật ở mặt trước Phúc Bát; có tháp lại lấy tầng thứ hai, hoặc tầng thứ ba làm mái lợp tròn, bên trên tạo thành Can Tản nhằm biểu lộ ý sùng kính. Có tháp lấy Cơ Đàn làm thành ba tầng hoặc năm tầng. Sau cùng mới xuất hiện công trình kiến trúc kết hợp tháp với Lan thuẫn. Cách xây tháp Phật của Nhật Bản và Trung Quốc là đến từ đây. Ngày nay các quốc gia theo Phật giáo nam truyền vẫn gìn giữ và xây dựng tháp theo phong cách của hình thái nguyên thỉ.

Hiện nay tại Ấn Độ, di tích tháp cổ tìm thấy được là tháp Bà Nhĩ Ha Đặc, cách A Lạp Hiệp ba (Allahabad) một trăm hai mươi dặm Anh về hướng tây nam, và tháp Tang Khư nằm cách vị trí trung ương của châu (bang) Bà Nhĩ Sa (Bhilsa) sáu dặm về hướng nam. Những điêu khắc nền cửa tháp và Lan thuẫn của tháp Bà Nhĩ Ba Đặc hiện được lưu giữ ở Bảo vật quán Gia Nhĩ Các Đáp của Ấn Độ. Tháp Tang Khư có đường kính một trăm hai mươi thước Anh. Cơ Đàn ở độ cao mười bốn thước Anh, và độ cao bốn mươi hai thước Anh đặt một Phúc Bát hình bán cầu, trên Phúc Bát còn có Bình - đầu và Tản Cái.

Gần đây tháp Tang Khư được tu bổ lại. Đây là ngôi tháp mang đậm bản sắc nghệ thuật kiến trúc cổ và đẹp nhất của Ấn Độ - đẹp từ thấp lên cao. Cũng có một truyền thuyết nói về tháp Tang Khư nhưng được chép ở hai nơi khác nhau. Ngoài ra, tại địa phương Ma Thâu La có ngôi đại tháp A Ma La Bà Đề với qui mô to lớn, cao đẹp.

Lại nữa, theo truyền thuyết, vua Ca Nhị Sắc Ca từng kiến tạo một ngôi đại tháp thờ Phật tại Phú Lâu Sa Bổ La, tháp cao hơn bốn mươi trượng, trang nghiêm nhất trên toàn Ấn.

2. Chi Đề (Caitya):

Còn có tên là Chế đa, chữ Chi Đề, Chế đa đều có nghĩa là Tháp. Về sau là nơi dùng để chư tăng tụ hội được đặt là Chế đa đường.

Chế đa đường chủ yếu là nơi cứ mỗi nửa tháng chư Tỳ kheo tụ hội để bố tát tụng giới. Cấu tạo của Chế đa đại thể, bên trong là hình chữ nhật, bức tường sau ở khoảng giữa, phía bên trong tạo ra nửa hình tròn ở giữa Chế đa. Chế đa hiện vẫn còn tuy đã bị hư hoại nhưng rất nổi tiếng, nổi tiếng hơn cả là Ca Lị (Karli), Na Tây Khắc (Nàsik) và viện Thạch Quật động ở A Khương Tha ở nam Ấn Độ. Đây là những di tích Chi đề cổ xưa nhất.

3. Tỳ Ha La (Vihàra):

Chi Đề là nơi tụ hội. Tỳ Ha La nơi nơi ngủ nghỉ, hay còn gọi là tăng phòng. Tỳ Ha La được tạo thành bởi nhiều tiểu thất. Nhưng cả một quần thể tăng phòng, tiểu thất tập trung lại thì gọi là Tăng Già Lam(Samghàràma), đơn độc chỉ có tăng phòng mới gọi là Tỳ Ha La. Nhưng tập hợp cả nhà ăn, tăng phòng, giảng đường, thiền đường v.v... tất cả được xây dựng tại một trú xứ nhất định, thì gọi là Tăng già lam. Vì thế, nên giá trị đích thực của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo là Tăng già lam. Như tịnh xá Kỳ Viên, tịnh xá Trúc Lâm được nhắc tới trong kinh, luật chẳng hạn. Nói về qui mô của các tịnh xá, hay Tăng già lam đều vô cùng trang nghiêm thanh tịnh. Tiếc một điều, tuy các nơi này đúng là kỳ quan khi đức Phật còn tại thế, nhưng hiện nay chẳng biết dựa vào đâu để khảo cứu. Thời gian gần đây di chỉ các tịnh xá Kỳ Viên, Trúc Lâm được phát hiện và khai quật tại các địa phương ở Ấn Độ, còn vườn Nai và chùa Nan Lan Đà đều được hậu nhân tu bổ và xây dựng thêm, nên cũng không còn giữ được diện mạo ban đầu.

- Nghệ thuật hội họa.

Bên trong chùa thờ Phật có bích họa. Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự(19), quyển mười bảy chép là: lúc ban đầu đức Phật cho phép ông Cấp Cô Độc được vẽ bích họa trong chùa, chỉ rõ cách vẽ như thế nào và vẽ ra làm sao. Từ môn ngạch đến miếu sở, không một nơi nào được vẽ bích họa.

Ghi chép này có liên quan đến bối cảnh thời đại của Hữu Bộ Luật. Giống như các phân tích ở phần trước - nói về điêu khắc. Ngày nay sở dĩ còn biết đến nền hội họa của Phật giáo, cũng là nhờ sự phát hiện trong cùng một hệ thống điêu khắc Kiền Đà La. Lệ như, tại địa phương Phạm Diễn Na (Bamian), thuộc phía tây Kiền Đà La, bên trong khám thờ Phật rất lớn có vẽ một bức bích họa - hình thiên nữ.

Địa chỉ Di Lan (Miran) Phật tự ở phía đông nước Thiện Thiện, người ta phát hiện một di phẩm bích họa cũng cùng hệ thống Kiền Đà La, được vẽ khoảng thế kỷ thứ ba tây lịch. Trong hang động tại Ba Cổ (Bàgh) cũng phát hiện được các tác phẩm bích họa vô cùng tinh mỹ, được vẽ vào cuối vương triều Cấp Đa (thế kỷ thứ bảy tây lịch).

Bích họa trong động A Khương Tha tại nam Ấn Độ - mới là đại biểu cho nền hội họa Ấn Độ. Về niên đại chế tác bích họa A Khương Tha là một sáng tác trường kỳ, tính từ một thế kỷ trước tây lịch cho đến thế kỷ thứ bảy tây lịch. Vách đá bên trong động cứ men theo hình thể vòng cung của đá núi mà khắc họa, mở ra hai chín tòa hang động, trong đó đếm được mười sáu hang động có bích họa và hiện đang vẫn còn. Đề tài khắc họa, ban đầu được lấy từ Bản Sinh Đàm và Phật truyện cũng như miêu tả cảnh sinh hoạt của các quí nhân đương thời. Đứng về phương diện phong tục và y phục v.v... mà xét thì điều kiện vật chất thời ấy chưa cao, nhưng về mặt nghệ thuật thì những bích họa trên vách đá là những tác phẩm chiếm vị trí cực cao trong nền hội họa Ấn Độ.

- Tác phẩm Văn học:

Thánh điển Phật giáo ở thời kfy đầu khí vận văn nghệ không mấy nồng ấm, phần nhiều sử dụng phương thức văn học như kinh Bát Nhã là biểu hiện pháp phủ định, kinh Pháp Hoa, kinh Duy Ma, kinh Hoa Nghiêm được sử dụng biểu hiện pháp tượng trưng, kinh Đại Vô Lượng Thọ biểu hiện pháp cảm giác, Minh chú của Mật giáo dùng cách biểu hiện thanh âm.

Về Phật truyện; như Phật Sở Hành Tán của Mã Minh thì lại dùng lối thơ cách điệu tươi đẹp mang tính cung đình để viết, trong khi Bản Sinh Đàn thì dùng phương thức cố sự của dân gian nhằm ngụ ý về Phật giáo. Trong Kệ Tụng (Geyya - Kỳ Dạ) và Trùng tụng (Gàthà - Già Đà) của cửu phần giáo (chín bộ kinh), trừ những bài tụng của Luận Bộ, còn thì tất cả đều sử dụng sắc thái văn học vô cùng phong phú. Thông thường đa phần là dùng Cơ Lạc Ca (S’loka) điệu. Cơ Lạc Ca điệu qui định một câu phải có đủ tám âm, bốn câu mới thành một bài tụng. Loại văn vần này về sau được dịch ra Hán văn, tuy phần nhiều không ăn vần, nhưng cũng không quá khó hiểu.

Trong các tác phẩm của Mã Minh, ngoài các phẩm Phật Sở Hành Tán, còn có tác phẩm Tôn Đà Lợi Nan Đà Thi, và Xá Lợi Phất Hí Khúc. Sau Mã Minh có ngài Ma Hí Lí Chế Tra( Matrceta) mà niên đại không rõ ràng, sáng tác Tứ Bách Tán, Nhất Bách Ngũ Thập Tán Phật Tụng. Hai tác phẩm này theo ghi chép của Nghĩa Tịnh trong Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện, quyển bốn(20)thì ở Ấn Độ phàm đã là người học vấn thì phải học cách tạo tán tụng, và không ai là không học tập; người xuất gia, bất luận là Đại thừa hay Tiểu thừa, sau khi đã học tụng được năm giới và mười giới đều phải tụng, học hai tác phẩm trên. Điều đó cho thấy địa vị trọng yêu của nhị táng.

Tiền bán thế kỷ thứ bảy có vua Giới Nhật (Silàditya) - vị lãnh tụ ở bắc Ấn Độ, ông muốn nhấn mạnh quan niệm từ bi của Phật giáo nên sáng tác thành vỡ ca kịch Long - Hỷ Ký (Nàgànanda) gồm năm màn (hồi). Vua Giới Nhật vị quân vương kiền thành tín Phật, đồng thời ông cũng là nhà văn hóa của đương thời. Ngoài ra ông còn sáng tác các vở ca kịch như: Hỷ Kiến Ký và Anh Lạc Ký, về thi tập, ông có cuốn Ca Đan Ba Lê tập.



(1)thanh tín sĩ: Ưu abf tắc.

(2)Đại Chánh tạng-27, giữa trang 655.

(3)Ấn Độ Thông Sử - của Chu Tường Quan - trang 100.

(4)Đại Chánh Tạng-51, giữa trang 883 đến đầu trang 887.

(5)Đại Chánh Tạng-50, dầu trang 189. Bà Nậu Bàn Đậu là Bồ Tát Thế Thân.

(6)Đại Chánh Tạng-50, đầu trang 189.

(7)Đại Chánh Tạng-51, giữa trang 887.

(8)Đại Chánh tạng-24, trang 252.

(9)Đại Chánh tạng-23, trang 811.

(10)Đại Chánh tạng-24, cuối trang 445.

(11)Đại Chánh tạng-1, từ trang 114 đến 149.

(12)Đại Chánh tạng-2 đầu trang 674.

(13)Đại Chánh tạng-2, trang 674.

(14)Đại Chánh tạng-2, đầu trang 706.

(15)Đại Chánh tạng-23, giữa trang 782.

(16)Đại Chánh tạng-23, đầu trang 874.

(17)Xích = thước: tương đương 95,2cm.

(18)Lan thuẫn = lan can và thành trụ lan can.

(19)Đại Chánh Tạng-24, trang 283.

(20)Đại Chánh Tạng-54, giữa trang 227.

---o0o---

Vi tính: Nguyên Trang- Trình bày: Anna

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567