Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần [2.9]

18/04/201318:08(Xem: 7819)
Phần [2.9]

Tạng Luật
Vinayapitaka

Phân Tích Giới Tỷ-Kheo - II
(Bhikkhuvibhanga II)

Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiêndịch
---o0o---

IX. CHƯƠNG ƯNG PHÁT LỘ
(PĀṬIDESANĪYAKAṆḌAṂ)

Bạch chư đại đức, bốn điều Ưng phát lộ (pāṭidesanīyā) này được đưa ra đọc tụng.

ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:

[781] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo ni nọ sau khi đi khất thực ở trong thành Sāvatthi vào lúc đi trở về đã nhìn thấy vị tỷ-kheo nọ và đã nói điều này:

- Này ngài đại đức, hãy nhận lãnh vật thực.

- Này sư tỷ, tốt lắm!

Rồi đã nhận lãnh hết tất cả. Khi thời giờ đã kề cận, vị ni ấy đã không thể đi khất thực nên bữa ăn đành phải nhịn.

Sau đó vào ngày thứ nhì, vị tỷ-kheo ni ấy …(như trên)…

Vào ngày thứ ba, vị tỷ-kheo ni ấy sau khi đi khất thực ở trong thành Sāvatthi vào lúc đi trở về đã nhìn thấy vị tỷ-kheo ấy và đã nói điều này:

- Này ngài đại đức, hãy nhận lãnh vật thực.

- Này sư tỷ, tốt lắm!

Rồi đã nhận lãnh hết tất cả. Khi thời giờ đã kề cận, vị ni ấy đã không thể đi khất thực nên bữa ăn đành phải nhịn.

Sau đó vào ngày thứ tư, vị tỷ-kheo ni ấy run lập cập đi trên đường. Người gia chủ đại phú đang đi xe ngược chiều đã nói với vị tỷ-kheo ni ấy điều này:

- Này ni sư, hãy tránh ra.

Vị ni ấy trong khi bước xuống đã bị té ngã ngay tại chỗ ấy. Người gia chủ đại phú đã xin lỗi vị tỷ-kheo ni ấy:

- Thưa ni sư, xin hãy thứ lỗi. Vì tôi ni sư đã bị té ngã .

- Này gia chủ, không phải vì ngươi mà ta đã bị té ngã. Chính vì ta đây yếu sức.

- Thưa ni sư, vì sao ni sư bị yếu sức?

Khi ấy, vị tỷ-kheo ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho người gia chủ đại phú. Người gia chủ đại phú ấy đã đưa vị tỷ-kheo ni ấy về nhà, dâng thức ăn, rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các ngài đại đức lại nhận lãnh vật thực từ tay của tỷ-kheo ni? Là người nữ có lợi lộc khó khăn!

Các tỷ-kheo đã nghe được người gia chủ đại phú phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao vị tỷ-kheo lại nhận lãnh vật thực từ tay của tỷ-kheo ni?

…(như trên)…

- Này tỷ-kheo, nghe nói ngươi nhận lãnh vật thực từ tay của tỷ-kheo ni, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

- Này tỷ-kheo, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ thân quyến?

- Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.

- Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến lại không biết điều gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì tốt đẹp hay không tốt đẹp đối với người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại nhận lãnh vật thực từ tay của tỷ-kheo ni không phải là thân quyến vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào sau khi tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm từ tay tỷ-kheo ni không phải là thân quyến đã đi vào trong xóm nhà, rồi nhai hoặc ăn thì vị tỷ-kheo ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”

[782] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.

(Người nữ) không phải là thân quyếnnghĩa là người nữ không có liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.

Tỷ-kheo ninghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.

Trong xóm nhànghĩa là đường có xe cộ, ngõ cụt, giao lộ, căn nhà.

Vật thực cứngnghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực cứng.

Vật thực mềmnghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, súp, bánh, cá, thịt. Vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

Không phải là nữ thân quyến, nhận biết không phải là nữ thân quyến, vị tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm từ tay của vị ni đã đi vào trong xóm nhà rồi nhai hoặc ănthì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

Không phải là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, vị tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm từ tay của vị ni đã đi vào trong xóm nhà rồi nhai hoặc ănthì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

Không phải là nữ thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, vị tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm từ tay của vị ni đã đi vào trong xóm nhà rồi nhai hoặc ănthì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

Vị nhận lãnh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi nhận lãnh từ tay của vị ni tu lên bậc trên từ một hội chúng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Nữ thân quyến, (lầm) tưởng không phải là nữ thân quyến, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Nữ thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Nữ thân quyến, nhận biết là nữ thân quyến, thì vô tội.

[783] Từ vị (tỷ-kheo ni) là thân quyến, (vị ni) bảo (người khác) trao cho chứ không tự trao cho, (vị ni) sau khi để xuống rồi cho, ở trong tu viện, ở chỗ trú ngụ của các tỷ-kheo ni, ở chỗ ngụ của các tu sĩ ngoại đạo, khi đang đi trở về, (vị ni) sau khi mang từ làng về rồi cho, (vị ni) cho vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời (nói rằng): “Hãy thọ dụng khi có duyên cớ,” từ cô ni tu tập sự, từ sa-di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ nhất.

*******

ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:

[784] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo được thỉnh mời đang thọ thực ở các gia đình. Các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư đứng hướng dẫn sự phục vụ đến các tỷ-kheo nhóm Lục Sư (nói rằng):

- Hãy dâng xúp ở đây, hãy dâng cơm ở chỗ này.

Các tỷ-kheo nhóm Lục Sư thọ thực theo như ý thích. Các tỷ-kheo khác thọ thực không được như ý. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư không ngăn cản các tỷ-kheo ni đang hướng dẫn sự phục vụ?

…(như trên)…

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các ngươi không ngăn cản các tỷ-kheo ni đang hướng dẫn sự phục vụ, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại không ngăn cản các tỷ-kheo ni đang hướng dẫn sự phục vụ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp các tỷ-kheo được thỉnh mời đang thọ thực ở các gia đình. Nếu có vị tỷ-kheo ni đứng tại nơi ấy đang hướng dẫn sự phục vụ (nói rằng): ‘Hãy dâng xúp ở đây, hãy dâng cơm ở chỗ này.’ Vị tỷ-kheo ni ấy nên bị từ chối bởi các tỷ-kheo ấy (nói rằng): ‘Này sư tỷ, hãy lui ra đến khi nào các tỷ-kheo thọ thực xong.’ Nếu không một vị tỷ-kheo nào lên tiếng để từ chối tỷ-kheo ni ấy (nói rằng): ‘Này sư tỷ, hãy lui ra đến khi nào các tỷ-kheo thọ thực xong’ thì các tỷ-kheo ấy nên thú nhận rằng: “Bạch chư đại đức, chúng tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; chúng tôi xin thú nhận tội ấy.’”

[785] Trường hợp các tỷ-kheo được thỉnh mời đang thọ thực ở các gia đình: Gia đìnhnghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình Sát-đế-lỵ, gia đình Bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.

Được thỉnh mời đang thọ thực: được thỉnh mời đang thọ thực loại vật thực nào đó thuộc về năm loại vật thực.

Tỷ-kheo ninghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.

(Vị ni) đang hướng dẫn sự phục vụnghĩa là (nói rằng): “Hãy dâng xúp ở đây, hãy dâng cơm ở chỗ này” thuận theo tình bạn bè, thuận theo sự đồng quan điểm, thuận theo sự đồng thọ thực, thuận theo sự có chung thầy tế độ, thuận theo sự có chung thầy dạy học; điều này gọi là (vị ni) đang hướng dẫn sự phục vụ.

Bởi các tỷ-kheo ấy: bởi các vị tỷ-kheo đang thọ thực.

Vị tỷ-kheo ni ấy: vị ni đang hướng dẫn sự phục vụ là vị tỷ-kheo ni ấy. Vị tỷ-kheo ni ấy nên bị từ chối bởi các tỷ-kheo ấy (nói rằng): “Này sư tỷ, hãy lui ra đến khi nào các tỷ-kheo thọ thực xong.” Nếu không một vị tỷ-kheo nào từ chối, vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi nhận lãnh thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

[786] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị không ngăn cản vị ni đang hướng dẫn sự phục vụ thì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị không ngăn cản vị ni đang hướng dẫn sự phục vụ thì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm tưởng) là chưa tu lên bậc trên, vị không ngăn cản vị ni đang hướng dẫn sự phục vụ thì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

Vị không ngăn cản vị ni tu lên bậc trên từ một hội chúng đang hướng dẫn sự phục vụ thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm tưởng) là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.

Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.

Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, thì vô tội.

[787] (Vị tỷ-kheo ni) bảo (người khác) dâng chớ không tự dâng bữa ăn của bản thân, (vị ni) t�� dâng chớ không bảo dâng bữa ăn của những người khác, (vị ni) bảo dâng vật chưa dâng, (vị ni) bảo dâng nơi nào chưa được dâng, (vị ni) bảo dâng đồng đều cho tất cả, cô ni tu tập sự hướng dẫn sự phục vụ, vị sa-di ni hướng dẫn sự phục vụ, tất cả (các thức khác) trừ ra năm loại vật thực, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ nhì.

*******

ĐIỀU HỌC THỨ BA:

[788] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, ở trong thành Sāvatthi, có gia đình nọ cả hai (vợ chồng) đều có niềm tin. Họ tăng trưởng về đức tin và xao lãng về của cải. Khi có vật thực cứng hoặc vật thực mềm gì phát sanh lên ở trong gia đình ấy trước bữa ăn, họ phân phát tất cả vật thực ấy đến các vị tỷ-kheo, đôi lúc họ không còn gì để ăn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các sa-môn Thích tử lại thọ lãnh không biết chừng mực? Những người này sau khi bố thí cho các vị này đôi lúc không còn gì để ăn.

Các tỷ-kheo đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, (trường hợp) gia đình nào tăng trưởng về đức tin và xao lãng về của cải, ta cho phép ban cho sự công nhận là bậc hữu học đến gia đình có hiện trạng như thế bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ nhì. Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi.Gia đình tên (như vầy) tăng trưởng về đức tin và xao lãng về của cải. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự công nhận là bậc hữu học đến gia đình tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Gia đình tên (như vầy) tăng trưởng về đức tin và xao lãng về của cải. Hội chúng ban cho sự công nhận là bậc hữu học đến gia đình tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho sự công nhận là bậc hữu học đến gia đình tên (như vầy), vị ấy nên im lặng; vị nào không đồng ý, có thể nói lên.

Sự công nhận là bậc hữu học đã được hội chúng ban cho đến gia đình tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học, vị tỷ-kheo nào sau khi tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học theo hình thức như thế rồi nhai hoặc ăn thì vị tỷ-kheo ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỷ-kheo như thế.

[789] Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthi có lễ hội. Dân chúng thỉnh mời các tỷ-kheo rồi dâng vật thực. Gia đình ấy cũng đã thỉnh mời các tỷ-kheo. Các tỷ-kheo trong lúc ngần ngại đã không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán nhai hoặc ăn vật thực loại cứng hoặc loại mềm sau khi tự tay nhận lãnh ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học.” Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Cuộc sống của chúng tôi có điều gì khiến các ngài đại đức không thọ lãnh của chúng tôi?

Các tỷ-kheo đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, với vị đã được thỉnh mời ta cho phép nhai hoặc ăn vật thực loại cứng hoặc loại mềm sau khi tự tay nhận lãnh ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học. Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học, vị tỷ-kheo nào không được thỉnh mời trước, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học theo hình thức như thế, rồi nhai hoặc ăn thì vị tỷ-kheo ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỷ-kheo như thế.

[790] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo nọ là vị thường lui tới với gia đình ấy. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỷ-kheo ấy đã mặc y cầm y bát đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, vị tỷ-kheo ấy bị bệnh. Rồi những người ấy đã nói với vị tỷ-kheo ấy điều này:

- Thưa ngài, xin hãy thọ thực.

Khi ấy, vị tỷ-kheo ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán vị không được thỉnh mời nhai hoặc ăn vật thực loại cứng hoặc loại mềm sau khi tự tay nhận lãnh ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học” trong lúc ngần ngại đã không thọ lãnh và không thể đi khất thực nên bữa ăn đành phải nhịn. Sau đó, vị tỷ-kheo ấy đã đi về tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo. Các tỷ-kheo đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ­ấy, nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, với vị tỷ-kheo bị bệnh ta cho phép nhai hoặc ăn vật thực loại cứng hoặc loại mềm sau khi tự tay nhận lãnh ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học. Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học, vị tỷ-kheo nào không được thỉnh mời trước, không bị bệnh, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học theo hình thức như thế rồi nhai hoặc ăn thì vị tỷ-kheo ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”

[791] Trường hợp các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học: Đã được công nhận là bậc hữu học nghĩa là gia đình nào tăng trưởng về đức tin và xao lãng về của cải, và sự công nhận là bậc hữu học bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ nhì đã được ban cho đến gia đình có hiện trạng như thế.

Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.

Ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học theo hình thức như thế: ở các gia đình đã được công nhận là bậc hữu học theo hình thức như vậy.

Không được thỉnh mời nghĩa là không được thỉnh mời vào ngày nay hoặc ngày mai. Khi (vị tỷ-kheo) đi vào vùng phụ cận của ngôi nhà rồi họ thỉnh mời; việc ấy gọi là không được thỉnh mời.

Được thỉnh mờinghĩa là được thỉnh mời vào ngày nay hoặc ngày mai. Khi (vị tỷ-kheo) không đi vào vùng phụ cận của ngôi nhà (và) họ thỉnh mời; việc ấy gọi là được thỉnh mời.

Không bị bệnhnghĩa là có thể đi khất thực.

Bị bệnhnghĩa là không thể đi khất thực.

Vật thực cứngnghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực cứng.

Vật thực mềmnghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, súp, bánh, cá, thịt. Vị không được thỉnh mời, không bị bệnh (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

[792] Đã được công nhận là bậc hữu học, nhận biết đã được công nhận là bậc hữu học, vị không được thỉnh mời, không bị bệnh, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm rồi nhai hoặc ăn thì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

Đã được công nhận là bậc hữu học, có sự hoài nghi, vị không được thỉnh mời, không bị bệnh, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm rồi nhai hoặc ăn thì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

Đã được công nhận là bậc hữu học, (lầm tưởng) chưa được công nhận là bậc hữu học, vị không được thỉnh mời, không bị bệnh, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm rồi nhai hoặc ăn thì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

Vị nhận lãnh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Chưa được công nhận là bậc hữu học, (lầm tưởng) đã được công nhận là bậc hữu học, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Chưa được công nhận là bậc hữu học, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Chưa được công nhận là bậc hữu học, nhận biết chưa được công nhận là bậc hữu học, thì vô tội.

[793] Vị đã được thỉnh mời, vị bị bệnh, vị thọ thực phần còn lại của vị đã được thỉnh mời hoặc của vị bị bệnh, vật thực đã được sắp đặt tại nơi ấy là của những người (thí chủ) khác, (gia đình ấy) sau khi đem ra khỏi nhà rồi dâng, bữa ăn thường kỳ, bữa ăn theo thẻ, vào mỗi nửa tháng, vào ngày Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng, (người ấy) dâng vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời (nói rằng): “Hãy thọ dụng khi có duyên cớ,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ ba.

*******

ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:

[794] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các nô lệ của dòng Sākya nổi loạn. Các người nữ dòng Sākya muốn làm bữa trai phạn ở những chỗ trú ngụ trong rừng. Các nô lệ của dòng Sākya đã nghe được rằng: “Nghe nói các người nữ dòng Sākya có ý định làm bữa trai phạn ở những chỗ trú ngụ trong rừng.” Chúng đã canh giữ các con đường. Các người nữ dòng Sākya đã mang thực phẩm thượng hạng loại cứng loại mềm đi đến chỗ trú ngụ ở trong rừng. Các nô lệ của dòng Sākya đã xuất hiện, cướp đoạt, và làm nhục các người nữ dòng Sākya. Những người dòng Sākya đã xuất hiện bắt giữ bọn cướp cùng với các đồ đạc rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các ngài đại đức không thông báo về bọn cướp đang ẩn náu trong tu viện?

Các tỷ-kheo đã nghe được những người dòng Sākya phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỷ-kheo vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm đem lại sự an lạc cho hội chúng, ...(như trên)... nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp những chỗ trú ngụ ở trong rừng được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng, vị tỷ-kheo nào đang sống ở các chỗ trú ngụ có hình thức như thế sau khi tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm chưa được báo tin trước ở trong khuôn viên tu viện rồi nhai hoặc ăn thì vị tỷ-kheo ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỷ-kheo như thế.

[795] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ ở những chỗ trú ngụ trong rừng bị bệnh. Dân chúng mang vật thực cứng mềm đi vào chỗ trú ngụ trong rừng. Khi ấy, những người ấy đã nói với vị tỷ-kheo ấy điều này:

- Thưa ngài, xin hãy thọ thực.

Khi ấy, vị tỷ-kheo ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán nhai hoặc ăn vật thực loại cứng hoặc loại mềm sau khi tự tay thọ lãnh ở những chỗ trú ngụ trong rừng” trong lúc ngần ngại đã không nhận lãnh. Vị ấy đã không thể đi khất thực nên bữa ăn đành phải nhịn. Sau đó, vị tỷ-kheo ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo. Các tỷ-kheo đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, với vị tỷ-kheo bị bệnh ta cho phép nhai hoặc ăn vật thực loại cứng hoặc loại mềm sau khi tự tay thọ lãnh ở những chỗ trú ngụ trong rừng. Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trường hợp có những chỗ trú ngụ ở trong rừng được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng, vị tỷ-kheo nào đang sống ở các chỗ trú ngụ có hình thức như thế, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm chưa được báo tin trước ở trong khuôn viên tu viện rồi nhai hoặc ăn khi không bị bệnh thì vị tỷ-kheo ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đã vi phạm tội đáng chê trách, không có ích lợi, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”

[796] Những chỗ trú ngụ ở trong rừngnghĩa là chỗ trú ngụ ở trong rừng cách (căn nhà) cuối cùng khoảng cách 500 cây cung.[1]

Có sự nguy hiểmnghĩa là trong tu viện hoặc trong vùng phụ cận tu viện, chỗ cắm trại của bọn cướp được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm được thấy.

Có sự kinh hoàngnghĩa là trong tu viện hoặc trong vùng phụ cận tu viện, dân chúng bị giết bởi bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy.

Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.

Ở các chỗ trú ngụ có hình thức như thế: ở các chỗ trú ngụ có hình thức như vậy.

Chưa được báo tinnghĩa là đã được báo tin đến năm hạng (người đồng đạo);[2]điều này nghĩa là chưa được báo tin. Đã được báo tin (ở các nơi khác) trừ ra (ở nơi) tu viện hoặc vùng phụ cận tu viện; điều này nghĩa là chưa được báo tin.

Đã được báo tinnghĩa là bất cứ người nữ nào hoặc người nam nào sau khi đi đến tu viện hoặc vùng phụ cận tu viện báo tin rằng: “Thưa ngài, vật thực loại cứng hoặc loại mềm của người tên (như vầy) sẽ được mang lại.” Nếu có sự nguy hiểm, nên nói rằng: “Có sự nguy hiểm.” Nếu có sự kinh hoàng, nên nói rằng: “Có sự kinh hoàng.” Nếu (người ấy) nói lại rằng: “Thưa ngài, hãy vậy đi. Sẽ được mang lại” thì nên nói với bọn trộm cướp rằng: “Dân chúng đi đến nơi đây, hãy lui ra.”

Khi đã được báo tin với cháo, vật phụ thuộc của cháo được mang lại; điều ấy nghĩa là đã được báo tin. Khi đã được báo tin với bữa ăn, vật phụ thuộc của bữa ăn được mang lại; điều ấy nghĩa là đã được báo tin. Khi đã được báo tin với vật thực cứng, vật phụ thuộc của vật thực cứng được mang lại; điều ấy nghĩa là đã được báo tin. Khi đã được báo tin về gia đình, những người thuộc gia đình ấy mang lại vật thực cứng hoặc vật thực mềm; điều ấy nghĩa là đã được báo tin. Khi đã được báo tin về ngôi làng, những người thuộc ngôi làng ấy mang lại vật thực cứng hoặc vật thực mềm; điều ấy nghĩa là đã được báo tin. Khi đã được báo tin về hội đoàn, những người thuộc hội đoàn ấy mang lại vật thực cứng hoặc vật thực mềm; điều ấy nghĩa là đã được báo tin.

Vật thực cứngnghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực cứng.

Vật thực mềmnghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, súp, bánh, cá, thịt.

Khuôn viên tu việnnghĩa là bên trong tu viện đối với tu viện đã được rào lại, là vùng phụ cận đối với tu viện không được rào lại.

Không bị bệnhnghĩa là có thể đi khất thực.

Bị bệnhnghĩa là không thể đi khất thực. Vị không bị bệnh (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận (vật thực )chưa được báo tin thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

[797] Khi chưa được báo tin, nhận biết là chưa được báo tin, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm ở trong khuôn viên tu viện rồi nhai hoặc ăn khi không bị bệnh thì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

Khi chưa được báo tin, có sự hoài nghi, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm ở trong khuôn viên tu viện rồi nhai hoặc ăn khi không bị bệnh thì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

Khi chưa được báo tin, (lầm) tưởng là đã được báo tin, sau khi tự tay nhận lãnh vật thực loại cứng hoặc loại mềm ở trong khuôn viên tu viện rồi nhai hoặc ăn khi không bị bệnh thì phạm tội ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ).

Vị nhận lãnh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi đã được báo tin, (lầm) tưởng là chưa được báo tin, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi đã được báo tin, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi đã được báo tin, nhận biết là đã được báo tin, thì vô tội.

[798] Khi đã được báo tin, vị bị bệnh, vị thọ thực phần còn lại trong trường hợp đã được báo tin hoặc của vị bị bệnh, vị thọ lãnh ở bên ngoài tu viện rồi thọ thực ở bên trong tu viện, vị thọ thực rễ cây hoặc vỏ cây hoặc lá cây hoặc bông hoa hoặc trái cây sanh trưởng tại nơi ấy, vị thọ dụng vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời khi có duyên cớ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ tư.

*******

[799] Bạch chư đại đức, bốn điều ưng phát lộ (pāṭidesanīyaṃ)đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?

Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?

Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?

Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Dứt Chương Ưng Phát Lộ (Pāṭidesanīyakaṇḍaṃ Niṭṭhitaṃ).

*******


[1]Tài liệu The Buddhist Monastic Codecho biết khoảng cách của 500 cây cung độ chừng 1 km.

[2]Năm hạng người đồng đạo là tỷ-kheo, tỷ-kheo ni, cô ni tu tập sự, sa-di, và sa-di ni.

---o0o---

Nguồn: www.budsas.org

Trình bày: Linh Thoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567