Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần [1.3]

18/04/201317:50(Xem: 9170)
Phần [1.3]

Tạng Luật
Vinayapitaka

Phân Tích Giới Tỷ-Kheo - I
(Bhikkhuvibhanga I)

Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiêndịch
2004

---o0o---

III. CHƯƠNG PĀRĀJIKA THỨ BA

[176] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự ở thành Vesālī, Mahāvana (Đại Lâm), giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) bất tịnh một cách cặn kẽ bằng nhiều phương thức đến các tỷ-kheo. Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, ta muốn thiền tịnh trong nửa tháng. Không ai đến gặp ta ngoại trừ một vị mang lại vật thực.

- Bạch ngài, xin vâng. Các tỷ-kheo ấy đã trả lời đức Thế Tôn.

Và quả thật không có vị nào đi đến gặp đức Thế Tôn ngoại trừ một vị mang lại vật thực. Các vị tỷ-kheo (nghĩ rằng): “Quả thật, đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) bất tịnh một cách cặn kẽ bằng nhiều phương thức;” rồi các vị ấy sống chuyên chú gắn bó vào việc hành thiền đề mục bất tịnh do nhiều động cơ khác nhau. Các vị ấy bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với cơ thể của chính mình cũng giống như người nữ hoặc người nam còn trẻ, ở tuổi thanh niên, ưa thích trang điểm, vừa mới gội đầu bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với xác rắn, hoặc xác chó, hoặc thây người chết máng vào cổ; tương tợ như thế, các vị tỷ-kheo ấy trong khi bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với cơ thể của chính mình (một số) tự mình đoạt lấy mạng sống của chính mình, (một số) đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, (một số) đi đến gặp sa-môn giả mạo Migalaṇḍika nói như vầy:

- Này đạo hữu, tốt thay ngươi hãy đoạt mạng sống của chúng tôi, y và bình bát này sẽ thuộc về ngươi.

Sau đó, được trả công bằng các y và bình bát sa-môn giả mạo Migalaṇḍika đã đoạt lấy mạng sống nhiều vị tỷ-kheo rồi cầm cây gươm đẫm máu đi đến giòng sông Vaggumudā. Khi ấy, sa-môn giả mạo Migalaṇḍika trong khi chùi rửa cây gươm đẫm máu ấy đã khởi lên sự ăn năn, đã khởi lên nỗi ân hận: “Thật là điều không lợi ích đã có cho ta! Thật là điều lợi ích đã không có cho ta! Ta đã đạt được điều xấu! Ta đã không đạt được điều tốt! Quả thật ta đã gây ra nhiều điều bất thiện là việc ta đã đoạt lấy mạng sống của các vị tỷ-kheo giới hạnh có thiện pháp!” Khi ấy, có vị thiên nhân nọ là tùy tùng của Ma vương đã đi đến trên mặt nước vẫn không bị làm chao động và nói với sa-môn giả mạo Migalaṇḍika điều này:

- Lành thay, lành thay, kẻ thiện nhân! Này kẻ thiện nhân, điều lợi ích đã có cho ngươi! Này kẻ thiện nhân, ngươi đã đạt được điều tốt! Này kẻ thiện nhân, ngươi đã tạo nên nhiều điều thiện là việc ngươi đã giải thoát cho những kẻ chưa được giải thoát![1]

Khi ấy, sa-môn giả mạo Migalaṇḍika (nghĩ rằng): “Nghe nói điều lợi ích đã có cho ta! Nghe nói ta đã đạt được điều tốt! Nghe nói ta đã tạo nên nhiều điều thiện là việc ta đã giải thoát cho những kẻ chưa được giải thoát!” rồi đã cầm cây gươm bén đi đến từ trú xá này đến trú xá khác, từ phòng này đến phòng khác nói như vầy:

- Vị nào chưa giải thoát? Ta giải thoát cho vị nào đây?

Tại nơi ấy, những vị tỷ-kheo nào chưa dứt bỏ tham ái thì các vị ấy, vào thời điểm ấy, trở nên sợ hãi, thân run rẩy, lông dựng đứng. Còn những vị tỷ-kheo nào đã dứt bỏ tham ái thì các vị ấy, vào thời điểm ấy, không trở nên sợ hãi, thân không run rẩy, lông không dựng đứng. Rồi sa-môn giả mạo Migalaṇḍika trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống một vị tỷ-kheo, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống hai vị tỷ-kheo, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống ba vị tỷ-kheo, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống bốn vị tỷ-kheo, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống năm vị tỷ-kheo, ...(như trên)... trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống mười vị tỷ-kheo, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống hai mươi vị tỷ-kheo, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống ba mươi vị tỷ-kheo, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống bốn mươi vị tỷ-kheo, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống năm mươi vị tỷ-kheo, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống sáu mươi vị tỷ-kheo.

[177] Khi đã trải qua nửa tháng ấy, đức Thế Tôn đã xuất khỏi thiền tịnh và bảo đại đức Ānanda rằng:

- Này Ānanda, có phải hội chúng tỷ-kheo dường như bị ít đi?

- Bạch ngài, sở dĩ như thế là vì đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) bất tịnh một cách cặn kẽ bằng nhiều phương thức đến các tỷ-kheo. Và bạch ngài, các tỷ-kheo ấy (nghĩ rằng): “Quả thật, đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) bất tịnh một cách cặn kẽ bằng nhiều phương thức,” rồi các vị ấy sống chuyên chú gắn bó vào việc hành thiền đề mục bất tịnh do nhiều động cơ khác nhau. Các vị ấy bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với cơ thể của chính mình cũng giống như người nữ hoặc người nam còn trẻ, ở tuổi thanh niên, ưa thích trang điểm, vừa mới gội đầu bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với xác rắn, hoặc xác chó, hoặc thây người chết máng vào cổ; tương tợ như thế, các vị tỷ-kheo ấy trong khi bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với cơ thể của chính mình (một số) tự mình đoạt lấy mạng sống của chính mình, (một số) đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, (một số) đi đến gặp sa-môn giả mạo Migalaṇḍika nói như vầy: “Này đạo hữu, tốt thay ngươi hãy đoạt mạng sống của chúng tôi, y và bình bát này sẽ thuộc về ngươi.” Bạch ngài, khi ấy, sa-môn giả mạo Migalaṇḍika được trả công bằng các y và bình bát trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống một vị tỷ-kheo, ...(như trên)... trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống sáu mươi vị tỷ-kheo. Bạch ngài, lành thay xin đức Thế Tôn hãy chỉ dạy đề mục khác theo đó hội chúng tỷ-kheo này có thể đạt được trí giải thoát.

- Này Ānanda, như thế thì có bao nhiêu tỷ-kheo sống nương tựa vào thành Vesālī, ngươi triệu tập lại tất cả các vị ấy ở tại phòng hội họp.

- Bạch ngài, xin vâng. Đại đức Ānanda đã đáp lời đức Thế Tôn.

Rồi có bao nhiêu tỷ-kheo sống nương tựa vào thành Vesālī, đại đức Ānanda sau khi triệu tập lại tất cả các vị ấy ở tại phòng hội họp rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, hội chúng tỷ-kheo đã được triệu tập. Bạch ngài, bây giờ là thời điểm của việc gì xin đức Thế Tôn hãy suy tính (về việc ấy).

[178] Sau đó, đức Thế Tôn đã đi đến phòng hội họp, sau khi đến đã ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được làm cho phát triển, được làm cho tăng trưởng, được trở nên thanh tịnh, cao quý, thuần khiết, có lạc là sự an trú, làm biến mất ngay lập tức các ác bất thiện pháp đã sanh hoặc chưa sanh khởi và làm cho tịch lặng. Này các tỷ-kheo, cũng giống như vào tháng cuối của mùa nóng, cơn mưa lớn sái mùa làm biến mất ngay lập tức và làm yên lặng các bụi bặm đã bốc lên; này các tỷ-kheo, tương tợ như thế, định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được làm cho phát triển, được làm cho tăng trưởng, được trở nên thanh tịnh, cao quý, thuần khiết, có lạc là sự an trú, làm biến mất ngay lập tức các ác bất thiện pháp đã sanh hoặc chưa sanh khởi và làm cho tịch lặng. Và này các tỷ-kheo, thế nào là định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được làm cho phát triển? Thế nào là được làm cho tăng trưởng, được trở nên thanh tịnh, cao quý, thuần khiết, có lạc là sự an trú, làm biến mất ngay lập tức các ác bất thiện pháp đã sanh hoặc chưa sanh khởi và làm cho tịch lặng? Này các tỷ-kheo, ở đây vị tỷ-kheo đi đến khu rừng, hoặc đi đến gốc cây, hoặc đi đến nơi thanh vắng, ngồi xuống, xếp chân thế kiết già, giữ thân thẳng và thiết lập niệm luôn hiện diện. Có niệm, vị ấy thở ra; có niệm, vị ấy thở vào.[2]Hoặc trong khi thở ra dài, vị ấy biết: “Tôi thở ra dài;” hoặc trong khi thở vào dài, vị ấy biết: “Tôi thở vào dài.” Hoặc trong khi thở ra ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở ra ngắn;” hoặc trong khi thở vào ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở vào ngắn.” “Nhận biết rõ toàn bộ hơi thở, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ toàn bộ hơi thở, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Làm cho an tịnh các thành phần của hơi thở, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Làm cho an tịnh các thành phần của hơi thở, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rõ hỷ, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ hỷ, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rõ lạc, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ lạc, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rõ các thành phần của tâm, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ các thành phần của tâm, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Làm cho an tịnh các thành phần của tâm, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Làm cho an tịnh các thành phần của tâm, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rõ tâm, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ tâm, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Tâm được hân hoan, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Tâm được hân hoan, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Tâm được định tĩnh, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Tâm được định tĩnh, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Tâm được giải thoát, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Tâm được giải thoát, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Với sự quán xét về vô thường, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Với sự quán xét về vô thường, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Với sự quán xét về ly tham, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Với sự quán xét về ly tham, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Với sự quán xét về đoạn diệt, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Với sự quán xét về đoạn diệt, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Với sự quán xét về dứt bỏ, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Với sự quán xét về dứt bỏ, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. Này các tỷ-kheo, định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được làm cho phát triển như thế, được làm cho tăng trưởng như thế, được trở nên thanh tịnh, cao quý, thuần khiết, có lạc là sự an trú, làm biến mất ngay lập tức các ác bất thiện pháp đã sanh hoặc chưa sanh khởi và làm cho tịch lặng.

[179] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi các vị tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo (một số) tự mình đoạt lấy mạng sống của chính mình, (một số) đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, (một số) đi đến gặp sa-môn giả mạo Migalaṇḍika nói như vầy: “Này đạo hữu, tốt thay ngươi hãy đoạt mạng sống của chúng tôi, y và bình bát này sẽ thuộc về ngươi,” có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, thật không đúng đắn cho những tỷ-kheo ấy, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ấy lại tự mình đoạt lấy mạng sống của chính mình, lại đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, lại đi đến gặp sa-môn giả mạo Migalaṇḍika nói như vầy: “Này đạo hữu, tốt thay ngươi hãy đoạt mạng sống của chúng tôi, y và bình bát này sẽ thuộc về ngươi” vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào cố ý đoạt lấy mạng sống con người hoặc tìm cách đem lại vũ khí cho người ấy; vị này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỷ-kheo như thế.

[180] Vào lúc bấy giờ, có người nam cư sĩ nọ bị bệnh. Vợ của người ấy thì đẹp đẽ, đáng nhìn, xinh xắn. Các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đem lòng say đắm người đàn bà ấy. Khi ấy, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã bàn bạc rằng: “Này các đại đức, nếu người nam cư sĩ ấy còn sống thì chúng ta sẽ không đạt được người đàn bà ấy. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ ấy.” Sau đó, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã đi đến gặp người nam cư sĩ ấy, sau khi đến đã nói với người nam cư sĩ ấy điều này:

- Này cư sĩ, quả thật ngươi có điều tốt đã làm, có điều thiện đã làm, sự sợ hãi lúc lâm chung đã được khắc phục (katabhīruttāṇo), có điều ác không làm, điều tàn bạo không làm, điều tội lỗi không làm, ngươi đã làm điều tốt đẹp, ngươi đã không làm điều ác, vậy thì còn gì với mạng sống tội lỗi xấu xa này của ngươi, sự chết đối với ngươi còn tốt hơn sự sống vậy. Từ chỗ này, khi tuổi thọ đã đến, khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi sẽ được tái sanh về cảnh giới tốt đẹp là cõi trời. Ở đó, được cung phụng và được sở hữu năm loại dục lạc thiên đường, ngươi sẽ mãn nguyện.

Khi ấy, người nam cư sĩ ấy (nghĩ rằng): “Các ngài đã nói sự thật bởi vì ta là người có điều tốt đã làm, có điều thiện đã làm, sự sợ hãi lúc lâm chung đã được khắc phục, có điều ác không làm, điều tàn bạo không làm, điều tội lỗi không làm, ta đã làm điều tốt đẹp, ta đã không làm điều ác, vậy thì còn gì với mạng sống tội lỗi xấu xa này của ta, sự chết đối với ta còn tốt hơn sự sống vậy. Từ chỗ này, khi tuổi thọ đã đến, khi tan rã thân xác và chết đi, ta sẽ được tái sanh về cảnh giới tốt đẹp là cõi trời. Ở đó, được cung phụng và được sở hữu năm loại dục lạc thiên đường, ta sẽ mãn nguyện.” Và người ấy đã ăn những vật thực mềm không thích hợp, đã nhai những vật thực cứng không thích hợp, đã nếm những thức nếm không thích hợp, và đã uống những thức uống không thích hợp. Khi người ấy đã ăn những vật thực mềm không thích hợp, đã nhai những vật thực cứng không thích hợp, đã nếm những thức nếm không thích hợp, và đã uống những thức uống không thích hợp, một cơn bệnh ngặt nghèo đã phát khởi. Chính vì cơn bệnh ấy, người ấy đã từ trần. Vợ của người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Các vị sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, giới hạnh xấu xa, nói láo. Chính các vị này giả vờ là những vị thực hành Pháp, là những vị thực hành sự an tịnh, là những vị có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp! Các vị này không có sa-môn hạnh, các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đã bị hư hỏng, Phạm hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đã không còn! Phạm hạnh của các vị này đã không còn! Các vị này đã ca ngợi lợi ích của sự chết đến chồng của tôi. Chồng của tôi đã bị các vị này giết chết.

Những người khác cũng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Các vị sa-môn Thích tử này không có khiêm tốn, ác giới, nói láo. Bởi vì các vị này làm ra vẻ là những vị thực hành Pháp, là những vị thực hành sự an tịnh, là những vị có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp (nhưng) các vị này không có sa-môn hạnh! Các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Phạm hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đã không còn! Phạm hạnh của các vị này đã không còn! Các vị này đã ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ. Người nam cư sĩ đã bị các vị này giết chết.

Các tỷ-kheo đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, ...(như trên)... các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư lại ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ?

Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các ngươi đã ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này những kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào cố ý đoạt lấy mạng sống con người, hoặc tìm cách đem lại vũ khí cho người ấy, hoặc ca ngợi lợi ích của sự chết, hoặc xúi giục đưa đến sự chết: “Này người ơi, còn gì với mạng sống tội lỗi xấu xa này của ngươi, sự chết đối với ngươi còn tốt hơn sự sống!” Vị có tâm ý và có tâm tư như thế rồi bằng nhiều phương thức ca ngợi lợi ích của sự chết hoặc xúi giục đưa đến sự chết, vị này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.

[181] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.

Cố ý: sự vi phạm trong khi biết, trong khi có ý định, sau khi đã suy nghĩ, sau khi đã khẳng định.

Con ngườinghĩa là vật gì ở khoảng giữa thời gian từ lúc tâm đầu tiên được sanh lên (tức là) thức đầu tiên hiện hữu trong bụng mẹ cho đến lúc chết; vật ấy gọi là con người

Đoạt lấy mạng sống: Cắt đứt mạng quyền, làm hủy hoại, làm tổn hại sự tiếp nối.

Hoặc tìm cách đem lại vũ khí cho người ấy: hoặc là thanh gươm, hoặc là cây giáo, hoặc là mũi tên, hoặc là cọc nhọn, hoặc là đùi cui, hoặc là tảng đá, hoặc là cây kiếm, hoặc là thuốc độc, hoặc là dây thừng.

[182] Hoặc ca ngợi lợi ích của sự chết: làm cho thấy được sự nguy hiểm trong sự sống và nói khen ngợi về sự chết.

[183] Hoặc xúi giục đưa đến sự chết: (Nói rằng): “Hãy mang lại cây kiếm, hoặc hãy nhai thuốc độc, hoặc hãy dùng dây thừng treo lên rồi chết đi.”

[184] Này người ơi: Đây là lối nói xưng hô “Này người ơi!”

Còn gì với mạng sống tội lỗi xấu xa này của ngươi, sự chết đối với ngươi còn tốt hơn sự sống: Cuộc sống nghĩa là tội lỗi. So với cuộc sống của những người giàu, cuộc sống của những người nghèo là tội lỗi. So với cuộc sống của những người có tài sản, cuộc sống của những người không có tài sản là tội lỗi. So với cuộc sống của chư thiên, cuộc sống của loài người là tội lỗi.

Mạng sống xấu xa: nghĩa là (mạng sống) của người bị cụt tay, của người bị cụt chân, của người bị cụt tay và chân, của người bị đứt tai, của người người bị đứt mũi, của người bị đứt tai và mũi. (Nói rằng): “Còn gì với sự tội lỗi này, với mạng sống xấu xa này, sự chết đối với ngươi còn tốt hơn sự sống!”

Có tâm ý như thế: Ý nào tâm nấy, tâm nào ý nấy.

Có tâm tư: có ý tưởng về sự chết, có ý định về sự chết, có suy nghĩ về sự chết

Bằng nhiều phương thức: bằng nhiều cách khác nhau.

Ca ngợi lợi ích của sự chết: làm cho thấy được sự nguy hiểm trong sự sống và nói khen ngợi về sự chết: “Từ chỗ này, khi tuổi thọ đã đến, khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi sẽ được tái sanh về cảnh giới tốt đẹp là cõi trời. Ở đó, được cung phụng và được sở hữu năm loại dục lạc thiên đường, ngươi sẽ mãn nguyện.”

[185] Hoặc xúi giục đưa đến sự chết: (Nói rằng): “Hãy mang lại cây kiếm, hoặc hãy nhai thuốc độc, hoặc hãy dùng dây thừng treo lên rồi chết đi, hoặc nhảy vào khe nứt, vào hố sâu, xuống vực thẳm.”

[186] Vị này cũng: là liên quan đến các vị trước đây đã được đề cập.

Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như tảng đá lớn bị bể làm hai không thể gắn liền lại được; tương tợ như thế, vị tỷ-kheo cố ý đoạt lấy mạng sống con người thì không phải là sa-môn, không phải là Thích tử; vì thế được gọi là “vị phạm tội pārājika.”

Không được cộng trú: Sự cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là sự cộng trú. Vị ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là “không được cộng trú.”

[187] Tự mình, bằng cách khẳng định, bằng người đưa tin, bằng người đưa tin theo lối dây chuyền, bằng người đưa tin không theo lối dây chuyền, bằng người đưa tin đã đi rồi quay trở lại, không hiện diện tưởng là hiện diện, hiện diện tưởng là không hiện diện, không hiện diện tưởng là không hiện diện, hiện diện tưởng là hiện diện, vị ca ngợi bằng thân, vị ca ngợi bằng lời nói, vị ca ngợi bằng thân và bằng lời nói, vị ca ngợi bằng người đưa tin, vị ca ngợi bằng chữ khắc, cái hố đào, sự trợ giúp, việc để bên cạnh, dược phẩm, sự đem lại cảnh sắc, sự đem lại cảnh thinh, sự đem lại cảnh khí, sự đem lại cảnh vị, sự đem lại cảnh xúc, sự đem lại cảnh pháp, sự chỉ bảo, sự dạy dỗ, hành động theo giờ hẹn, hành động theo dấu hiệu.

[188] Tự mình: vị đích thân giết bằng (cách sử dụng) thân thể (tay, chân, nắm đấm, đầu gối, v.v...), hoặc bằng vật dính liền với thân thể (gươm, dao, v.v...), hoặc bằng vật được phóng ra (ví dụ mũi tên).

Bằng cách khẳng định: sau khi khẳng định rồi ra lệnh rằng: “Người hãy đâm như vầy, hãy đánh như vầy, hãy giết như vầy.”

[189] Vị tỷ-kheo chỉ thị vị tỷ-kheo rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị kia nhận biết người ấy rồi đoạt lấy mạng sống của người ấy thì cả hai phạm tội pārājika.

Vị tỷ-kheo chỉ thị vị tỷ-kheo rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị kia nhận biết người ấy rồi đoạt lấy mạng sống của người khác thì vị khởi xướng vô tội còn vị giết người phạm tội pārājika.

Vị tỷ-kheo chỉ thị vị tỷ-kheo rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị kia nhận biết người khác rồi đoạt lấy mạng sống của người ấy thì cả hai phạm tội pārājika.

Vị tỷ-kheo chỉ thị vị tỷ-kheo rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị kia nhận biết người khác rồi đoạt lấy mạng sống của người khác thì vị khởi xướng vô tội còn vị giết người phạm tội pārājika.

[190] Vị tỷ-kheo (A)[3]chỉ thị vị tỷ-kheo (B) rằng: “Hãy bảo vị tên (C) rằng: Vị tên (C) hãy nói với vị tên (D) rằng: Vị tên (D) hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy’” thì vị ấy (A) phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị (nào) nói cho vị khác thì vị (nói) ấy phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị giết người (D) đồng ý thì vị khởi xướng (A) phạm trọng tội (thullaccaya); vị ấy (D) đoạt lấy mạng sống của người ấy thì tất cả đều phạm tội pārājika.

Vị tỷ-kheo (A) chỉ thị vị tỷ-kheo (B) rằng: “Hãy bảo vị tên (C) rằng: Vị tên (C) hãy nói với vị tên (D) rằng: Vị tên (D) hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy’” thì vị ấy (A) phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị ấy (B) chỉ thị vị khác (D) thì vị ấy (B) phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị giết người (D) đồng ý thì vị ấy (D) phạm tội tác ác (dukkaṭa); vị ấy (D) đoạt lấy mạng sống của người ấy thì vị khởi xướng (A) vô tội, vị truyền chỉ thị (B) và vị giết người (D) phạm tội pārājika.

[191] Vị tỷ-kheo chỉ thị vị tỷ-kheo rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị kia đi rồi quay trở lại (nói rằng): “Tôi không thể đoạt lấy mạng sống người ấy.” Vị ấy lại chỉ thị thêm: “Khi nào ngươi có thể thì khi ấy ngươi hãy đoạt lấy mạng sống người ấy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị kia đoạt lấy mạng sống người ấy thì cả hai phạm tội pārājika.

[192] Vị tỷ-kheo chỉ thị vị tỷ-kheo rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận nhưng không nói rõ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có giết.” Vị kia đoạt lấy mạng sống người ấy thì cả hai phạm tội pārājika. Vị tỷ-kheo chỉ thị vị tỷ-kheo rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận rồi nói rõ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có giết.” Vị kia (đáp lại rằng): “Tôi đã được ngài chỉ thị” rồi đoạt lấy mạng sống người ấy thì vị khởi xướng vô tội, còn vị giết người phạm tội pārājika. Vị tỷ-kheo chỉ thị vị tỷ-kheo rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận rồi nói rõ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có giết.” Vị kia (đáp lại rằng): “Tốt thôi” rồi ngưng lại thì cả hai vô tội.

[193] Không hiện diện vị ấy tưởng là hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Hiện diện vị ấy tưởng là không hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Không hiện diện vị ấy tưởng là không hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Hiện diện vị ấy tưởng là hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[194] Vị ca ngợi bằng thânnghĩa là vị ấy làm cử chỉ bằng thân: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

Vị ca ngợi bằng lời nóinghĩa là vị ấy phát ngôn bằng lời nói: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

Vị ca ngợi bằng thân và bằng lời nóinghĩa là vị ấy làm cử chỉ bằng thân và phát ngôn bằng lời nói: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

[195] Vị ca ngợi bằng người đưa tinnghĩa là vị ấy nói ra lời chỉ dẫn cho người đưa tin: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi nghe lời chỉ dẫn của người đưa tin, (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

Vị ca ngợi bằng chữ khắcnghĩa là vị ấy khắc chữ: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa) với mỗi mẫu tự. (Đối tượng) sau khi nhìn thấy chữ khắc (nghĩ rằng): “Ta sẽ chết” rồi gây nên cảm thọ khổ thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

[196] Cái hố đàonghĩa là vị ấy đào cái hố dành cho người (nghĩ rằng): “Người rơi xuống sẽ chết” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Trong khi rơi xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

Vị ấy đào cái hố không dành riêng cho ai (nghĩ rằng): “Bất cứ ai rơi xuống sẽ chết” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). (Nếu) con người rơi vào cái hố ấy thì vị ấy phạm tội tác ác (dukkaṭa). Trong khi rơi xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika. (Nếu) dạ-xoa, hoặc ngạ quỷ, hoặc thú có dạng người rơi vào cái hố ấy thì vị ấy phạm tội tác ác (dukkaṭa). Trong khi rơi xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì vị ấy phạm tội tác ác (dukkaṭa). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Nếu) thú vật rơi vào cái hố ấy thì vị ấy phạm tội tác ác (dukkaṭa). Trong khi rơi xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì vị ấy phạm tội tác ác (dukkaṭa). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[197] Sự trợ giúpnghĩa là trong sự trợ giúp vị ấy đặt vũ khí, hoặc thoa thuốc độc, hoặc làm cho yếu đi, hoặc đem để ở chỗ khe nứt hoặc ở hố sâu hoặc nơi vực thẳm (nghĩ rằng): “Với việc này, người rơi xuống sẽ chết” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Do vũ khí, hoặc do thuốc độc, hoặc do bị rơi xuống khiến cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

[198] Việc để bên cạnhnghĩa là đem lại bên cạnh hoặc là thanh gươm, hoặc là cây giáo, hoặc là mũi tên, hoặc là cọc nhọn, hoặc là đùi cui, hoặc là tảng đá, hoặc là cây kiếm, hoặc là thuốc độc, hoặc là dây thừng (nghĩ rằng): “(Người ấy) sẽ chết bằng vật này” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). (Đối tượng) (nghĩ rằng): “Ta sẽ chết bằng vật ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

[199] Dược phẩmnghĩa là (vị ấy) trao cho bơ lỏng (sappi), bơ đặc (navanītaṃ), dầu ăn (telaṃ), mật (madhu), đường mía (phānitaṃ) (nghĩ rằng): “Sau khi nếm vật này (người ấy) sẽ chết” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Trong khi nếm vật ấy, cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

[200] Sự đem lại cảnh sắcnghĩa là (vị ấy) đem lại cảnh sắc trái ý, dễ sợ, và khủng khiếp (nghĩ rằng): “Sau khi nhìn thấy cảnh sắc này (người ấy) sẽ bị hoảng hốt và chết đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi nhìn thấy cảnh sắcấy, (đối tượng) bị hoảng hốt thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika. (Vị ấy) đem lại cảnh sắc hợp ý, dễ thương, và đáng yêu(nghĩ rằng): “Sau khi nhìn thấy cảnh sắc này (người ấy) sẽ bị thất vọng vì không đạt được và chết đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi nhìn thấy cảnh sắcấy, (đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

Sự đem lại cảnh cảnh thinhnghĩa là (vị ấy) đem lại cảnh thinh trái ý, dễ sợ, và khủng khiếp(nghĩ rằng): “Sau khi nghe được tiếng này (người ấy) sẽ bị hoảng hốt và chết đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi nghe được tiếng ấy, (đối tượng) bị hoảng hốt thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika. (Vị ấy) đem lại cảnh thinh hợp ý, dễ thương, và đáng yêu(nghĩ rằng): “Sau khi nghe được tiếng này (người ấy) sẽ bị thất vọng vì không đạt được và chết đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi nghe được tiếng ấy, (đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

Sự đem lại cảnh khínghĩa là (vị ấy) đem lại cảnh khí trái ý, ghê tởm, và khó chịu(nghĩ rằng): “Sau khi ngửi mùi này (người ấy) sẽ có sự ghê tởm và khó chịurồi chết đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Khi ngửi mùi ấy, (đối tượng) có sự ghê tởm và khó chịu, cảm thọ khổ sanh khởi thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika. (Vị ấy) đem lại cảnh khí hợp ý (nghĩ rằng): “Sau khi ngửi mùi này (người ấy) sẽ bị thất vọng vì không đạt được và chết đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi ngửi mùi ấy, (đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

Sự đem lại cảnh vịnghĩa là (vị ấy) đem lại cảnh vị trái ý, ghê tởm, và khó chịu(nghĩ rằng): “Sau khi nếm vị này (người ấy) sẽ có sự ghê tởm và khó chịurồi chết đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Khi nếm thử vị ấy, (đối tượng) có sự ghê tởm và khó chịu, cảm thọ khổ sanh khởi thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika. (Vị ấy) đem lại cảnh vị hợp ý (nghĩ rằng): “Sau khi nếm vị này (người ấy) sẽ bị thất vọng vì không đạt được và chết đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi nếm vị ấy, (đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

Sự đem lại cảnh xúcnghĩa là (vị ấy) đem lại cảnh xúc trái ý, gây đau đớn, thô cứng (nghĩ rằng): “Đụng chạm vào vật này (người ấy) sẽ chết đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Khi (đối tượng) đụng chạm vật ấy, cảm thọ khổ sanh khởi, thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika. (Vị ấy) đem lại cảnh xúc hợp ý, gây khoái lạc, mềm mại (nghĩ rằng): “Đụng chạm vào vật này (người ấy) sẽ bị thất vọng vì không đạt được và chết đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Khi đụng chạm vật ấy, (đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

Sự đem lại cảnh phápnghĩa là (vị ấy) thuyết bài giảng về địa ngục của người đi địa ngục (nghĩ rằng): “Sau khi nghe điều này (người ấy) sẽ bị hoảng hốt và chết đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi nghe được điều ấy (đối tượng) bị hoảng hốt thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika. (Vị ấy) thuyết bài giảng về cõi trời của nghiệp lành (nghĩ rằng): “Sau khi nghe điều này (người ấy) sẽ bị tác động rồi chết đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Sau khi nghe được điều ấy (đối tượng) bị tác động (nghĩ rằng): “Ta sẽ chết” rồi gây nên cảm thọ khổ thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

[201] Sự chỉ bảonghĩa là khi được hỏi (vị ấy) nói rằng: “Nên chết như vầy, người nào chết như vầy người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách chỉ bảo ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

Sự dạy dỗnghĩa là khi không được hỏi (vị ấy) nói rằng: “Nên chết như vầy, người nào chết như vầy người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách dạy dỗ ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì vị ấy phạm trọng tội (thullaccaya). (Đối tượng) chết đi thì vị ấy phạm tội pārājika.

[202] Hành động theo giờ hẹnnghĩa là quy định giờ hẹn hoặc là trước bữa ăn, hoặc là sau bữa ăn, hoặc là ban đêm, hoặc là ban ngày. (Bảo rằng): “Hãy đoạt lấy mạng sống người ấy vào giờ hẹn ấy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) vị kia đoạt lấy mạng sống người ấy vào giờ hẹn ấy thì cả hai phạm tội pārājika; (nếu) vị kia đoạt lấy mạng sống người ấy trước hay sau giờ hẹn ấy thì vị khởi xướng vô tội còn vị giết người phạm tội pārājika.

Hành động theo dấu hiệunghĩa là (vị ấy) làm dấu hiệu (bảo rằng): “Tôi sẽ nháy mắt, hoặc là tôi sẽ nhướng mày, hoặc là tôi sẽ ngẩng đầu lên, ngươi hãy đoạt lấy mạng sống người ấy theo dấu hiệu ấy” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa); (nếu) vị kia đoạt lấy mạng sống người ấy theo dấu hiệu ấy thì cả hai phạm tội pārājika; (nếu) vị kia đoạt lấy mạng sống người ấy trước hay sau dấu hiệu ấy thì vị khởi xướng vô tội còn vị giết người phạm tội pārājika.

[203] Vị không cố ý, vị không biết, vị không có ý muốn gây tử vong, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt Tụng phẩm thứ nhất trong phần “Tội pārājika vì giết người.”

[204]

Việc ca ngợi, ngồi xuống,
chuyện chày và cối giã,
các vị già xuất gia,
mắc nghẹn thịt, thuốc độc,
ba chuyện làm nền đất,
ba chuyện khác về gạch,
lưỡi rìu, và khung gỗ,
giàn giáo, leo xuống, té,
hơ nóng, mũi, xoa bóp,
việc tắm, và thoa dầu,
nâng dậy, và xô ngã,
chết bởi vì cơm, nước,
có thai với nhân tình,
và người có hai vợ,
giết chết hai mẹ con,
cả hai không bị chết,
chà xát, và đốt nóng,
không sanh, còn sanh sản,
thọt lét, sự trả thù,
dạ-xoa, quỷ dữ tợn
và vị phái người đi,
tưởng vị ấy rồi giết,
giảng cõi trời, địa ngục,
ba chuyện về cây cối
ở thành Āḷavī,
ba chuyện khác về lửa,
chớ làm cho khổ sở,
không làm theo cách ngài,
(cho uống) sữa còn bơ,
và cháo chua có muối.

[205] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo vì lòng trắc ẩn đã ca ngợi lợi ích của sự chết đến vị ấy. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng chúng ta đã phạm tội pārājika?” Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, các ngươi đã phạm tội pārājika.

[206] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo đi khất thực nọ trong khi ngồi xuống đã ngồi đè lên đứa bé trai được phủ bởi tấm màn ở trên chiếc ghế và gây ra tử vong. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” Sau đó, vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika. Và này các tỷ-kheo, khi chưa xem xét không nên ngồi xuống ở chỗ ngồi; vị nào ngồi xuống thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[207] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc sắp đặt chỗ ngồi ở nhà ăn nơi xóm nhà đã cầm lấy một cái chày khi đưa cái chày lên. Cái chày thứ hai đã rơi xuống và chạm mạnh vào đỉnh đầu của đứa bé trai nọ. Đứa bé đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, (khi ấy) ngươi có tâm gì?

- Bạch Thế Tôn, con không cố ý.

- Này tỷ-kheo, không cố ý thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong khi sắp đặt chỗ ngồi ở nhà ăn nơi xóm nhà đã bước lên các vật dụng như cối giã khiến (chúng) quay tròn rồi chạm mạnh vào đứa bé trai nọ và gây ra tử vong. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, không cố ý thì vô tội.

[208] Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia ở nơi các tỷ-kheo. Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đã nói với người cha điều này:

- Thưa cha, hãy đi. Hội chúng đang chờ cha đó.

Rồi đã nắm lấy ở lưng và đẩy tới. Người cha đã té xuống và chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, (khi ấy) ngươi có tâm gì?

- Bạch Thế Tôn, con không có ý muốn gây tử vong.

- Này tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia nơi các vị tỷ-kheo. Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đã nói với người cha điều này:

- Thưa cha, hãy đi. Hội chúng đang chờ cha đó.

Rồi đã nắm lấy ở lưng và đẩy tới có ý muốn gây tử vong. Người cha đã té xuống và chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội pārājika.

Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia nơi các vị tỷ-kheo. Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đã nói với người cha điều này:

- Thưa cha, hãy đi. Hội chúng đang chờ cha đó.

Rồi đã nắm lấy ở lưng và đẩy tới có ý muốn gây tử vong. Người cha đã té xuống và không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

[209] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc đang ăn đã bị mắc nghẹn miếng thịt ở cổ họng. Một vị tỷ-kheo khác đã vỗ vào cổ của vị tỷ-kheo ấy. Cục thịt rơi ra có dính máu. Vị tỷ-kheo đó đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, vị tỷ-kheo nọ trong lúc đang ăn đã bị mắc nghẹn miếng thịt ở cổ họng. Một vị tỷ-kheo khác có ý muốn gây tử vong đã vỗ vào cổ của vị tỷ-kheo ấy. Cục thịt rơi ra có dính máu. Vị tỷ-kheo đó đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội pārājika.

Vào lúc bấy giờ, vị tỷ-kheo nọ trong lúc đang ăn đã bị mắc nghẹn miếng thịt ở cổ họng. Một vị tỷ-kheo khác có ý muốn gây tử vong đã vỗ vào cổ của vị tỷ-kheo ấy. Cục thịt rơi ra có dính máu. Vị tỷ-kheo đó đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

[210] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo đi khất thực nọ sau khi nhận được vật thực có thuốc độc đã mang trở về và dâng các tỷ-kheo nếm thử trước. Các tỷ-kheo đó đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, (khi ấy) ngươi có tâm gì?

- Bạch Thế Tôn, con không biết.

- Này tỷ-kheo, vị không biết thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ có ý muốn thử nghiệm đã trao thuốc độc cho vị tỷ-kheo khác. Vị tỷ-kheo đó đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, (khi ấy) ngươi có tâm gì?

- Bạch Thế Tôn, con có ý muốn thử nghiệm.

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

[211] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở thành Āḷavī thực hiện nền đất của trú xá. Có vị tỷ-kheo nọ ở bên dưới đưa đá lên. Vị tỷ-kheo ở phía trên nắm lấy vụng về khiến viên đá chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỷ-kheo ở bên dưới. Vị tỷ-kheo đó đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, không cố ý thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở thành Āḷavī thực hiện nền đất của trú xá. Có vị tỷ-kheo nọ ở bên dưới đưa đá lên. Vị tỷ-kheo ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả viên đá ở đỉnh đầu của vị tỷ-kheo ở bên dưới. Vị tỷ-kheo đó đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội pārājika.

Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở thành Āḷavī thực hiện nền đất của trú xá. Có vị tỷ-kheo nọ ở bên dưới đưa đá lên. Vị tỷ-kheo ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả viên đá ở đỉnh đầu của vị tỷ-kheo ở bên dưới. Vị tỷ-kheo ấy đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở thành Āḷavī xây dựng bức tường của trú xá. Có vị tỷ-kheo nọ ở bên dưới đưa gạch lên. Vị tỷ-kheo ở phía trên nắm lấy vụng về khiến viên gạch chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỷ-kheo ở bên dưới. Vị tỷ-kheo đó đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, không cố ý thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở thành Āḷavī xây dựng bức tường của trú xá. Có vị tỷ-kheo nọ ở bên dưới đưa gạch lên. Vị tỷ-kheo ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả viên gạch ở đỉnh đầu của vị tỷ-kheo ở bên dưới. Vị tỷ-kheo đó đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỷ-kheo đó đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở thành Āḷavī xây dựng công trình mới. Có vị tỷ-kheo nọ ở bên dưới đưa lưỡi rìu lên. Vị tỷ-kheo ở phía trên nắm lấy vụng về khiến lưỡi rìu chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỷ-kheo ở bên dưới. Vị tỷ-kheo đó đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, không cố ý thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở thành Āḷavī xây dựng công trình mới. Có vị tỷ-kheo nọ ở bên dưới đưa lưỡi rìu lên. Vị tỷ-kheo ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả lưỡi rìu ở đỉnh đầu của vị tỷ-kheo ở bên dưới. Vị tỷ-kheo đó đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỷ-kheo đó đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở thành Āḷavī xây dựng công trình mới. Có vị tỷ-kheo nọ ở bên dưới đưa khung gỗ lên. Vị tỷ-kheo ở phía trên nắm lấy vụng về khiến khung gỗ chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỷ-kheo ở bên dưới. Vị tỷ-kheo đó đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, không cố ý thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở thành Āḷavī xây dựng công trình mới. Có vị tỷ-kheo nọ ở bên dưới đưa khung gỗ lên. Vị tỷ-kheo ở phía trên có ý muốn gây tử vong nên đã thả khung gỗ ở đỉnh đầu của vị tỷ-kheo ở bên dưới. Vị tỷ-kheo đó đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỷ-kheo đó đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở thành Āḷavī trong khi xây dựng công trình mới buộc lại cái giàn giáo. Có vị tỷ-kheo nọ đã nói với vị tỷ-kheo khác điều này:

- Này đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi buộc lại.

Vị kia đã đứng ở chỗ ấy và trong khi buộc lại đã bị rơi xuống và chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, (khi ấy) ngươi có tâm gì?

- Bạch Thế Tôn, con không có ý muốn gây tử vong.

- Này tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở thành Āḷavī trong khi xây dựng công trình mới buộc lại cái giàn giáo. Có vị tỷ-kheo nọ có ý muốn gây tử vong đã nói với vị tỷ-kheo khác điều này:

- Này đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi buộc lại.

Vị kia đã đứng ở chỗ ấy và trong khi buộc lại đã bị rơi xuống và chết đi. ...(như trên)... đã bị rơi xuống và không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

[212] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ lợp xong trú xá và leo xuống. Có vị tỷ-kheo nọ đã nói với vị tỷ-kheo ấy điều này:

- Này đại đức, hãy leo xuống từ chỗ này.

Vị ấy trong khi leo xuống bằng chỗ ấy đã bị té xuống và chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ lợp xong trú xá và leo xuống. Có vị tỷ-kheo nọ có ý muốn gây tử vong đã nói với vị tỷ-kheo ấy điều này:

- Này đại đức, hãy leo xuống từ chỗ này.

Vị ấy trong khi leo xuống bằng chỗ ấy đã bị té xuống và chết đi. ...(như trên)... đã bị té xuống và không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

[213] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bực bội bởi sự không thỏa thích nên đã leo lên đỉnh núi Gijjhakūṭa và trong khi lao xuống vách núi đã chạm người đan giỏ và gây ra tử vong. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika. Và này các tỷ-kheo, không nên lao mình xuống; vị nào lao xuống thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sau khi leo lên núi Gijjhakūṭa đã ném đá để đùa giỡn. Viên đá đã chạm vào người chăn bò nọ và gây ra tử vong. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, các ngươi không phạm tội pārājika. Và này các tỷ-kheo, không nên ném đá để đùa giỡn; vị nào ném thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[214] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo đã hơ nóng vị ấy. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo có ý muốn gây tử vong đã hơ nóng vị ấy. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỷ-kheo ấy đã không bị chết. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh nóng đầu. Các tỷ-kheo đã cho vị ấy thuốc ở mũi. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh nóng đầu. Các tỷ-kheo có ý muốn gây tử vong đã cho vị ấy thuốc ở mũi. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỷ-kheo ấy đã không bị chết. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo đã xoa bóp vị ấy. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo có ý muốn gây tử vong đã xoa bóp vị ấy. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỷ-kheo ấy đã không bị chết. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo đã tắm cho vị ấy. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo có ý muốn gây tử vong đã tắm cho vị ấy. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỷ-kheo ấy đã không bị chết. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo đã thoa dầu cho vị ấy. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo có ý muốn gây tử vong đã thoa dầu cho vị ấy. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỷ-kheo ấy đã không bị chết. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo đã dìu vị ấy đứng dậy. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo có ý muốn gây tử vong đã dìu vị ấy đứng dậy. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỷ-kheo ấy đã không bị chết. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo đã làm vị ấy ngã xuống. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo có ý muốn gây tử vong đã làm vị ấy ngã xuống. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỷ-kheo ấy đã không bị chết. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo đã cho vị ấy thức ăn. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo có ý muốn gây tử vong đã cho vị ấy thức ăn. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỷ-kheo ấy đã không bị chết. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo đã cho vị ấy thức uống. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị bệnh. Các tỷ-kheo có ý muốn gây tử vong đã cho vị ấy thức uống. Vị tỷ-kheo ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỷ-kheo ấy đã không bị chết. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

[215] Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ có chồng đi vắng đã mang thai với tình nhân. Cô ấy đã nói với vị tỷ-kheo thường lui tới với gia đình điều này:

- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.

- Này chị gái, tốt thôi!

Rồi đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Đứa bé trai đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội pārājika.

Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai người vợ, một cô không sanh sản cô kia còn sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đã nói với vị tỷ-kheo thường lui tới với gia đình điều này:

- Thưa ngài, nếu cô ấy sẽ sanh con thì cô ta sẽ là chủ nhân của toàn bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.

- Này chị gái, tốt thôi!

Rồi đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Đứa bé trai đã chết đi. Người mẹ đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội pārājika.

Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai người vợ, một cô không sanh sản cô kia còn sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đã nói với vị tỷ-kheo thường lui tới với gia đình điều này:

- Thưa ngài, nếu cô ấy sẽ sanh con thì cô ta sẽ là chủ nhân của toàn bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.

- Này chị gái, tốt thôi!

Rồi đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Người mẹ đã chết đi. Đứa bé trai đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai người vợ, một cô không sanh sản cô kia còn sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đã nói với vị tỷ-kheo thường lui tới với gia đình điều này:

- Thưa ngài, nếu cô ấy sẽ sanh con thì cô ta sẽ là chủ nhân của toàn bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.

- Này chị gái, tốt thôi!

Rồi đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Cả hai đã chết đi. ...(như trên)... Cả hai đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà có thai nọ đã nói với vị tỷ-kheo thường lui tới với gia đình điều này:

- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.

- Này chị gái, như thế thì hãy chà xát.

Cô ấy đã chà xát và đã làm sẩy thai. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội pārājika.

Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà có thai nọ đã nói với vị tỷ-kheo thường lui tới với gia đình điều này:

- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.

- Này chị gái, như thế thì hãy đốt nóng.

Cô ấy đã đốt nóng và đã làm sẩy thai. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội pārājika.

Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà không sanh sản nọ đã nói với vị tỷ-kheo thường lui tới với gia đình điều này:

- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc men làm cho tôi có thể sanh sản đi.

- Này chị gái, tốt thôi!

Rồi đã cho cô ấy thuốc men. Cô ấy đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội tác ác (dukkaṭa).[4]

Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà còn sanh sản nọ đã nói với vị tỷ-kheo thường lui tới với gia đình điều này:

- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc men làm cho tôi không còn sanh sản đi.

- Này chị gái, tốt thôi!

Rồi đã cho cô ấy thuốc men. Cô ấy đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[216] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã làm cho vị tỷ-kheo nhóm Mười Bảy Sư cười bằng cách dùng ngón tay thọt lét. Vị tỷ-kheo ấy trong khi rối loạn không thở ra được nên đã chết đi. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, (các ngươi) không phạm tội pārājika mà phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[217] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Mười Bảy Sư (nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ gây chuyện,” rồi chạm mạnh vào vị tỷ-kheo nhóm Lục Sư khiến vị ấy chết đi. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, (các ngươi) không phạm tội pārājika mà phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[218] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ là vị đuổi tà ma đã đoạt lấy mạng sống của loài dạ-xoa. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

[219] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ đã phái vị tỷ-kheo nọ đến trú xá có dạ-xoa dữ tợn. Các con dạ-xoa đã đoạt lấy mạng sống vị đó. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ có ý muốn gây tử vong đã phái vị tỷ-kheo nọ đến trú xá có dạ-xoa dữ tợn. Các con dạ-xoa đã đoạt lấy mạng sống vị đó. ...(như trên)... Các con dạ-xoa đã không đoạt lấy mạng sống vị đó. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ đã phái vị tỷ-kheo nọ đến khu rừng hoang có thú dữ. Các con thú dữ đã đoạt lấy mạng sống vị đó. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ có ý muốn gây tử vong đã phái vị tỷ-kheo nọ đến khu rừng hoang có thú dữ. Các con thú dữ đã đoạt lấy mạng sống vị đó. ...(như trên)... Các con thú dữ đã không đoạt lấy mạng sống vị đó. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ đã phái vị tỷ-kheo nọ đến khu rừng hoang có trộm cướp. Những kẻ trộm cướp đã đoạt lấy mạng sống vị đó. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ có ý muốn gây tử vong đã phái vị tỷ-kheo nọ đến khu rừng hoang có trộm cướp. Những kẻ trộm cướp đã đoạt lấy mạng sống vị đó. ...(như trên)... Những kẻ trộm cướp đã không đoạt lấy mạng sống vị đó. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

[220] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ nhận ra người ấy rồi đã đoạt lấy mạng sống người ấy, nhận ra người ấy rồi đã đoạt lấy mạng sống người khác, nhận ra người khác rồi đã đoạt lấy mạng sống người ấy, nhận ra người khác rồi đã đoạt lấy mạng sống người khác. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội pārājika.

[221] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị phi nhân chiếm giữ. Có vị tỷ-kheo khác đã đánh vào vị tỷ-kheo đó. Vị tỷ-kheo đó đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ bị phi nhân chiếm giữ. Có vị tỷ-kheo khác có ý muốn gây tử vong đã đánh vào vị tỷ-kheo đó. Vị tỷ-kheo đó đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỷ-kheo đó đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

[222] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ thuyết bài giảng về cõi trời của nghiệp lành. Người ấy bị tác động nên đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ có ý muốn gây tử vong thuyết bài giảng về cõi trời của nghiệp lành. Người ấy bị tác động nên đã chết đi. ...(như trên)... Người ấy bị tác động đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ thuyết bài giảng về địa ngục của người đi địa ngục. Người ấy bị hoảng hốt nên đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ có ý muốn gây tử vong thuyết bài giảng về địa ngục của người đi địa ngục. Người ấy bị hoảng hốt nên đã chết đi. ...(như trên)... Người ấy bị hốt hoảng đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

[223] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở thành Āḷavī chặt cây trong khi xây dựng công trình mới. Có vị tỷ-kheo nọ đã nói với vị tỷ-kheo khác điều này:

- Này đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi chặt.

Trong khi vị ấy đứng ở chỗ ấy đang chặt thì cái cây đã ngã đè lên và giết chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, các vị tỷ-kheo ở Āḷavī trong khi xây dựng công trình mới chặt cây. Có vị tỷ-kheo nọ có ý muốn gây tử vong đã nói với vị tỷ-kheo khác điều này:

- Này đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi chặt.

Trong khi vị ấy đứng ở chỗ ấy đang chặt thì cái cây đã ngã đè lên và giết chết. ...(như trên)... Cái cây đã ngã đè lên và không giết chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

[224] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã nổi lửa đốt rừng. Dân chúng bị đốt cháy đã chết đi. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.

Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư có ý muốn gây tử vong đã nổi lửa đốt rừng. Dân chúng bị đốt cháy đã chết đi. ...(như trên)... Dân chúng bị đốt cháy đã không bị chết. Các Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, (các ngươi) không phạm tội pārājika mà phạm trọng tội (thullaccaya).

[225] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ sau khi đi đến pháp trường đã nói với viên xử tử kẻ cướp điều này:

- Này đạo hữu, chớ để người này bị khổ sở. Hãy đoạt lấy mạng sống bằng một nhát.

- Thưa ngài, tốt thôi!

Rồi đã đoạt lấy mạng sống bằng một nhát. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội pārājika.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ sau khi đi đến nơi tử hình đã nói với viên xử tử kẻ cướp điều này:

- Này đạo hữu, chớ để người này bị khổ sở. Hãy đoạt lấy mạng sống bằng một nhát.

- Tôi sẽ không làm theo lời nói của ngài.

Rồi đã đoạt lấy mạng sống kẻ ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[226] Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có tay và chân bị chặt đứt ở trong nhà của gia tộc và có các thân quyến vây quanh. Có vị tỷ-kheo nọ đã nói với những người ấy điều này:

- Này các đạo hữu, các người có mong muốn cái chết của người này không?

- Thưa ngài, đúng vậy. Chúng tôi muốn.

- Như thế thì hãy cho uống sữa còn bơ.

Họ đã cho người ấy uống sữa còn bơ. Người ấy đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...

- Này tỷ-kheo, ngươi đã phạm tội pārājika.

Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có tay và chân bị chặt đứt ở trong nhà của gia tộc và được các thân quyến vây quanh. Có vị tỷ-kheo ni nọ đã nói với những người ấy điều này:

- Này các đạo hữu, các người có mong muốn cái chết của người này không?

- Thưa ni sư, đúng vậy. Chúng tôi muốn.

- Như thế thì hãy cho uống cháo chua có muối.

Họ đã cho người ấy uống cháo chua có muối. Người ấy đã chết đi. Vị ni ấy đã có nỗi nghi hoặc. Rồi vị tỷ-kheo ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo ni. Các tỷ-kheo ni đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo. Các tỷ-kheo đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo ni ấy đã phạm tội pārājika.

Dứt điều pārājika thứ ba.


[1]... tvaṃ atiṇṇe tāresi: Ngươi đã làm cho vượt qua (tāresi) những kẻ chưa được vượt qua (luân hồi).

[2]Đây là lời giải thích của ngài Buddhaghosa: “Assāsoti bahi nikkhamanavāto. Passāsoti anto pavisanavāto” (Hơi thở ra là gió đi ra bên ngoài. Hơi thở vào là gió đi vào bên trong). Như thế “assasati” là thở ra, “passasati” là thở vào, và phương pháp “Niệm hơi thở ra hơi thở vào” được trình bày hơi thở ra trước rồi mới đến hợi thở vào. Từ điển của Childers và A. P. Buddhadatta Mahā Thera cho nghĩa bị đảo lộn; do đó, có một vài bản dịch cũng bị lầm lẫn theo.

[3]Chúng tôi thêm vào A, B, C, D để cho dễ hiểu.

[4]Tội tác ác (dukkaṭa) vì làm thầy thuốc (theo ngài Buddhaghosa).

---o0o---

Nguồn: www.budsas.org

Trình bày: Linh Thoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567