Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tối thượng ý đà-ra-ni Kinh

11/01/201222:52(Xem: 4891)
Tối thượng ý đà-ra-ni Kinh
duc-phat-nam-tong
Tối thượng ý đà-ra-ni Kinh
Hán dịch: Đại sư Thí Hộ
Việt dịch: Sa-môn Thích Viên Đức

Như thật tôi nghe. Một thời đức Phật ngự tại Ngưu Đầu Chiên Đàn tinh xá thuộc thành Cứu Cáp cùng các vị đại Tỳ-khưu nhóm hội đầy đủ và Thiên long bát bộ cung kính vi nhiễu chiêm ngưỡng mà an trụ.

Bấy giờ đức Thế Tôn dạy A-nan-đà và các đại chúng rằng: “Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế,do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an ẩn. Có đà-la-niđể diệt trừ các tai nạn và tăng trưởng cát tường. Nay ta tuyên nói, các ông hãy lắng nghe!”

Bấy giờ A-nan-đà và các đại chúngvâng lời dạy dỗ của Phật, lẳng lặng chú ý nghe.

Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo.Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa, chừng bốn do-tuần, bỗng nơi giữa đường thấy một thần nhân đứng ở đàng xa. Thần nhân này thân cao 30 thước, mặt tròn bốn thước. Tỳ-khưu Truyền Giáokia thấy thần nhân có thân thể hùng vĩ, nét mặt sáng rực, mới thẩm xét quán sát, biết đây không phải là người tầm thường, mà chính thật là Diệu Cát Tường Đồng Tử.

Tỳ-khưu Truyền Giáođến trước mặt thần nhân, năm vóc sát đất, nép thân lễ kính. Làm lễ xong, chắp tay chiêm ngưỡng mà bạch thần nhân rằng: “Vì sao Diệu Cát Tường Đồng Tử hiện tướng như thế? Nay con xét biết, nhất định ngài không phải là ai khác, mà là một vị thánh.”

Bấy giờ,thần nhân bảo Tỳ-khưu rằng: “Đúng như lời ông nói, ta chính là Diệu Cát Tường vậy.” Tỳ-khưu Truyền Giáolại bạch thần nhân rằng: “Tại sao nay ngài hiện tướng này?” Bấy giờ thần nhân bảo Tỳ-khưu Truyền Giáorằng: “Ông có biết nay cõi Nam Diêm-phù-đề sẽ có tai nạn chăng?Những chúng sinh bạc phước sẽ mắc các thứ bệnh, chịu các khổ não.”Tỳ-khưu bạch rằng: “Nay vì lý do gìcõi Nam Diêm-phù-đề bỗng nhiên có những tai nạn ấy?”

Thần nhân nói: “Nay tại mặt Nam của núi Diệu Cao có A-tu-la hưng khởi tâm ác, đem các quyến thuộc giao chiến với chư Thiên. A-tu-la che khuất mặt trời, mặt trăng và làm cho ánh sáng không còn chiếu hiện nữa. Lại có vô lượng cực ác Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la… vv, ở mặt Nam của núi Diệu Cao, thấy A-tu-la hiện tướng đó rồi cũng cùng nhau trợ giúp. Bấy giờ chư Thiên thoái bại, A-tu-lađắc thắng.Thời cõi Nam Diêm-phù-đềbỗng thấy ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, các vì sao bị che mất như vậy, các tướng bất tường xuất hiện nơi nơi, phong vũ phi thời, nắng lụt tranh nhau xuất hiện. Các ngũ cốc, lúa mạ, không thể đơm hoa kết trái. Giả sử có trái thì ăn cũng không có mùi vị, nên khiến cho oai quang sắc lực của chúng sinh đều giảm kém, gầy ốm.

Lại có các loài ác quỷ loại Tỳ-xá-xà biến làm bổn hình, hiện các dị tướng. Hoặc làm sư tử, cọp, beo, hoặc hình trạng giống chó sói, cũng lại hiện ra những tướng nữ nhơn yêu quái não loạn chúng sinh, khiến sinh các thứ bệnh, làm chúng sinh chịu mọi khổ não. Đó là: bệnh bướu cổ, bệnh phong, bệnh đàm, bệnh thổ tả, bệnh đau mắt, bệnh đau đầu, bệnh đau bụng cho đến bệnh trĩ, ban trái. Lại có các thứ bệnh rét hoặc phát bệnh một ngày hoặc cách ngày, hoặc phát giây lát hoặc suốt tháng. Hoặc bị bệnh ghẻ, ghẻ ngứa ghẻ chùm ghẻ lác, các ác tật bệnh khắp cõi Diêm-phù-đề, khiến các chúng sinh chịu rất nhiều khổ não. Những người ít phước không thể nào tránh khỏi, cho đến người giả cả, kẻ trung niên hoặc thiếu niên hoặc trẻ nhỏ do những tai chẩnnày, mà phần nhiều bị chết yểu.Này Tỳ-khưu! Do xót thương về những việc này nên ta bi cảm nói ra, do đó hiện ra các tướng trạng này cảnh cáo cho mọi người biết.

Này tỳ-khưu! Ta nay bảo ông: Nếu có chúng sinh tự thân mình và các quyến thuộc cho đến tụ lạc, xóm làng, cõi nước, muốn tiêu tai họa, tăng ích phước lành, trước tiên thâm sinh kính trọng ngôi Tam Bảo, bày biện các hoa thơm, trái ngon quả ngọt, thắp hương,rưới dầu thơm, làm lễ cúng dường các thứ đầy đủ. Cần phải chí tâm một thất không ăn, ngày bốn thời, đêm bốn thời, dũng mãnh chuyên chú trì tụng Tối Thượng Ý Đà-la-ni thì tai nạn kia quyết tiêu diệt hẳn, tất cả phước lành sẽ được tăng ích.Tỳ-khưu! Nếu muốn trì tụng Tối Thượng Ý Đà-la-ni kia, trước cần phải cúi đầu xưng niệm danh hiệu: ‘Nam mô Quảng Đại Thậm Thâm Trí Huệ Chấn Hống Vương Như Lai’xong, liền tụng Đà-la-ni.”

Bấy giờ thần nhânkia vì Tỳ-khưu Truyền Giáomàtuyên nói Tối Thượng Ý Đà-la-nirằng:

Đát nễ-dã tha Vĩ bố la nga lý nhĩ đế, vĩ bố la thấp phạ lị, vĩ bố la dụ nễ thế, a la nga đế, sa hạNẵng mồtát lị-phạ nễ phạ ra nỉ vĩ sắt kiếm tỳ nõa, đát tha nga đá tả. Đát nễ-dã tha hế ma, hế ma, hạ ma hế, sa hạ Nẵng mồ ngu nõa ca ra tả, đát tha nga đa tả. Đát nễ-dã tha Nga nga nẵng ca lị, nga nga nẵng tam bà phệ, nga nga nẵng kiết lị đế, sa hạ Nẵng mồra đát-nẵng na-nga đaNẵng mồ đát tha nga đa tả Đát nễ-dã tha Ra đát-nỗ nạp-nga đế, ra đát-nẵng tam bà phệ, sa hạ Nẵng mồ ma hạ a nhĩ đa tát-phạ di nễ, đát tha nga đa tả. Đát nễ-dã tha A ma ma hế, sa hạ Nẵng mồ ma nẵng tát-đán bà tả, đát tha nga đa tả Đát nễ-dã tha Ma nẵng ta-đát vãm, thuật đà, bát nạp-ma sa lị, bát nạp-ma tam bà phệ ca lị hế đa ca lị duệsa hạ Nẵng mồtát lị-phạ một đà mạo địa tát đát nẫmNẵng mồ A lị dã mạn tố thất-lị dã. Đát nễ-dã tha Nhạ duệ, nhạ dã la một địa, hế ma hế ma, ma hạ ma hế sa hạNẵng mồ a lị dã phạ lộ chỉ đế thấp phạ la tả Đát nễ-dã tha Nga nga nẵng trà duệ, nga nga nẵng vĩ ngật lăng đa, ế hế mi sa ha Nẵng mồa lị dã tam mãn đa bà nại-la tả, đát tha nga đa tả Đát nễ-dã tha Hế bà nại-lị ma hạ bà nại-lị, a mật-lý đa bà nại-lị, vĩ nga đa, ra nhạ tế, sa hạ.Nẵng mồa lị dã phạ nhật-ra địa ba đa duệ đa dã Đát nễ-dã tha Kiết lị đế đa, tát lị-phạ nhĩ nễ tỵ a để kiết lị-đế đa, tát lị-phạ nhĩ nễ tỵ, phạ nhật-la tam bà phệ, phạ nhật-la tỵ na ca dã, sa hạ. Nẵng mồtát lị-phạ một đà mạo địa tát đỏa nam. Đát nễdã tha Thấp-phệ đa ca lị tỵ nhập-phạ la nễ duệ, sa hạ.Tát-đán bà nễ mô hạ nễ, bán nhạ nễ, bôn noa lị ca dạ, sa hạ. Ma hạ nan đế nan bà, nễ duệ, sa hạ. Nỗ la vĩ nỗ lị duệ, sa hạ. La vĩ hật-lị đế, sa hạ. Phiến đế, tất phệ nễ phạ, bá ni duệ, sa hạ. Lãm mô nại lý duệ, ca la bá thế, kiết lị-đế đa, sa hạ. A nha-noa nẵng, vĩ đà ma nễ duệ, sa hạ. Đà đổ, ca lị duệ, sa hạ. Mi già, ca lị duệ, sa hạ. Mạt la vãm đế duệ, sa hạ. Mạo địa-dựng nga nan đế duệ, sa hạ. Yết lị ma ta đà nễ, ca dã, sa hạ. Ê ca la ma dã, sa hạ. A dũ nga tả lị ni duệ, sa hạ. Một-la hám-mô bá ngu trà dã, sa hạ. Tát lị-phạ ca lị-ma phạ la noa tỵ tất sử khất đa dã, sa hạ. Tát lị-phạ một đà tỵ tam tắc-hật rị đa dã, sa hạ. Ê ca tất-lăng nga dã, sa hạ. A tất-lăng nga dã, sa hạ. Bộ đa dã, sa hạ. A bộ đa dã, sa hạ. Tát lị-phạ noa cụ ba, tam ma dã, sa hạ. Ma ma, tát lị-phạ nẫm tả, sa hạ.

Lúc bấy giờ thần nhân nói Tối Thượng Ý Đà-la-ninày rồi, liền dạyTỳ-khưu Truyền Giáorằng: “Ông nay đem Đà-la-ni này vào mười phương cõi Nam Diêm-phù-đề, truyền nói nơi quốc ấp, tụ lạc, xứ xứ, khiến các chúng sinh đều được nghe biết, phải khiến cho Đà-la-ni này được rộng tuyên lưu bố. Vì cớ sao thế? Vì muốn cho chúng sinh tăng trưởng công đức vậy, có thể ban cho chúng sinh trừ các khổ não vậy, hay ở thế gian trừ các tai nạn vậy, hay khiến cho các ác quỷ thần trừ các ác tâm vậy, hay khiến cho quốc ấp, tụ lạc từ vua đến thần dân, hết thảy đều được an ẩn khoái lạc vậy.

Này Tỳ-khưu! Nếu có kẻ trai lành và người gái tín, muốn dùng Đà-la-ni này cung kính, cúng dường, thọ trì, đọc tụng để dứt trừ tai nạn, tăng trưởng công đức, nên phải phát tâm chí thành quy y Tam Bảo, Ở trong một thất, bày biện các hương hoa cúng dường nơi Phật tượng, và ngày ấy cúng dường bảy vị Tăng, giữa đêm ở gia đình của mình thắp đèn đuốc sáng mà trì tụng Đà-la-ni này thì sẽ được giải thoát hết thảy tai nạn.

Này Tỳ-khưu! Nếu kẻ trai lành và người gái tín hay tác pháp như thế thì tự thân mình giải thoát. Tỳ-khưu! Nếu hai thất bày biện hương hoa ẩm thực cúng dường Phật, Pháp,Tăng sẽ được bội phần hơn trước, cha mẹ của người đó sẽ được giải thoát.

Này Tỳ-khưu! Nếu ba thất bày biện hương hoa cúng dường Phật Pháp Tăng như trên, thì hết thảy nam nữ quyến thuộc của người đó đồng được giải thoát. Này Tỳ-khưu! Nếu bốn thất như thế mà tu trì thì bội bội phần hơn trước, tinh tấn tu hành không giãi đãi, thì người đó ở đâu, tất cả người dân trong tụ lạc ấy đều được giải thoát.

Này Tỳ-khưu! Nói tóm lại cho đến bảy thất bội bội tăng thù thắng cúng dường Phật Pháp Tăng như trước, thì người ấy thu hoạch công đức, từ trên đến quốc vương cho đến nhân dân thảy đều giải thoát.Này Tỳ-khưu nên biết, nay ta nói với ông rằng, các ông trì Pháp này, hãy mau chóng truyền khiến cho lưu bố ở địa phương khác. Vì sao thế? Vì pháp này hay giúp chúng sinh tiêu trừ mọi thứ khổ não, tăng trưởng các công đức vậy.

Này Tỳ-khưu! Nếu lại có người được nghe biết sự lợi ích của pháp này mà lòng không cung kính, lại không vì người khác mà rộng tuyên nói, lại tự mình không chuyên đọc tụng,Tỳ-khưu nên biết người đó có cái lỗi giấu Pháp, ngang bằng với tội ngũ nghịch. Này Tỳ-khưu! Nếu có chúng sinh được nghe Pháp này, không trái với lời dạy của ta, cúi đầu tự quy y, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, cung kính. Lại vì người khác y Pháp tu phước,lại hay lưu bố rộng lợi ích chúng sinh, Tỳ-khưu,ta liền trông biết, trước hết ta vì người này qua đến núi Diệu Cao, thẳng tới chỗ thiên nhơn, A-tu-la, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, dùng tâm lợi ích hàng phục, khuyến dụ. Ta sẽ vì họ nói Pháp khiến cho họ được hoan hỉ, khiến nhóm thiên nhơn, A-tu-la… vv, dứt trừ lòng tranh đấu mà hãy cùng nhau cung kính. Tức là cõi Diêm-phù-đề liền dứt trừ tai nạn, không còn sinh khởi nữa. Các ác quỷ thần mỗi mỗi đều lẩn trốn, tất cả chúng sinh đều được an vui.”

Bấy giờ vị thần nhânkia nói việc đó rồi liền ẩn hình biến mất. Tỳ-khưu Truyền Giáo tuân phụng truyền nói.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn dạy các đại chúng rằng: “Diệu Cát Tường Đồng Tử kia nơi đời quá khứ dùng sức phương tiện vì các chúng sinh nói Pháp như thế. Nay ta vì các ông lại tuyên nói. Các ông nên chuyên tâm thọ trì, đọc tụng. Vào đời vị lai, rộng tuyên lưu bố để tiêu trừ tai nạn, tăng ích phước lành.”

Bấy giờ A-nan-đà và các đại chúng nghe Phật nói xong thảy đều vui mừng, chí tâm thọ trì, lễ Phật mà trở về.

Kinh Tối Thượng Ý Đà-ra-ni
(Hết)


Sa-môn Thích Viên Đức dịch từ Hán ra Việt năm 1976
Vi tính: Nguyễn thị Diệu Minh và Nguyễn minh Hoàng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2020(Xem: 16422)
33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn-Hoa (HT Thanh Từ biên dịch, TT Nguyên Tạng giảng trong mùa dịch Covid-19 năm 2020)
18/07/2020(Xem: 12177)
CÁO PHÓ Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Gia đình chúng con, chúng tôi vô cùng đau buồn, kính báo tin đến Chư Tôn Đức Tăng Ni cùng Thân Bằng Quyến Thuộc và Bạn Hữu xa gần: Mẹ, Bà của chúng con, chúng tôi là: Cụ Bà Phật tử: PHẠM THỊ DOAN Pháp danh: BẠCH VÂN Sinh năm: 1928 (Mậu Thìn) tại Hưng Yên, Bắc Việt Vãng sanh ngày 18/07/2020 (ngày 28/05/năm Canh Tý) tại Melbourne, tiểu bang Victoria, Úc Đại Lợi Hưởng thượng thọ: 93 tuổi. Chương Trình Tang Lễ: - Lễ nhập liệm, Phát tang: 06 pm thứ Ba, 21/07/2020 tại Vãng Sanh Đường Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Rd, Fawkner, VIC 3060. Vì Đại dịch Covid-19, chỉ có gia đình được phép dự Lễ Tang 10 người, nên bà con và bè bạn chỉ hộ niệm qua livestream - Lễ Động Quan hỏa táng: 02 pm thứ Tư, 22/07/2020, cử hành lễ Di quan, Linh Cữu sẽ được đưa đi hỏa táng tại nghĩa trang Fawkner, sau đó gia đình thỉnh Hương Linh về làm lễ An Sàng và cúng thất tuần tại Tu Viện Quảng Đức. - Tang Lễ tại Úc được sự chứng minh & chủ trì của HT
20/02/2020(Xem: 7022)
Tựa và thứ tự của các bài kinh là do người sau đặt thêm vào các bài giảng của Đức Phật với mục đích phân loại và sắp xếp, do đó nhiều bài kinh có thể mang cùng một tên gọi, hoặc cùng một bài kinh nhưng có nhiều tựa khác nhau. Đây cũng là trường hợp của bài kinh Metta Sutta (Tương Ưng Bộ Kinh/Samyutta Nikaya, SN 46.54) trên đây, bài kinh này còn với nhiều tên khác như Mettasuttam, Karaniyametta Sutta, Mettasahagata Sutta...
20/02/2020(Xem: 4863)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được chư Tổ cho rằng đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
18/02/2020(Xem: 6144)
Đạo Phật là đạo đối trị với vô minh tức là đối trị với kẻ ngu si, dại khờ, nên Kinh Pháp Cú dành trọn một phẩm để đề cập đến hạng người này. Truyện tích kể rằng một cô gái rất đẹp và hiền thục, con một thương gia giàu có. Nước da cô như màu hoa sen xanh biếc nên cô có tên là Liên Hoa Sắc. Đến tuổi cập kê có quá nhiều vương tôn công tử đến xin hỏi cưới cô. Cô không ưng ai cả. Xuất gia làm ni cô, tinh tấn tu hành trong một căn lều giữa rừng. Một ngày cô ra khỏi rừng đi vào thành phố khất thực. Một kẻ bất lương vốn là con người cậu của ni cô, đem lòng yêu cô từ khi cô chưa đi tu, hắn lén vào rừng trốn dưới gầm giường. Khi cô trở về hắn hãm hiếp cô. Ngay sau đó khi hắn rời khỏi lều thời mặt đất nứt ra và tên gian ác bị đọa vào địa ngục.
02/01/2020(Xem: 3780)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kinh Phật thuyết xuất gia duyên, thuộc Kinh số 791 thuộc tạng CBETA hoặc trang 214-216 thuộc quyển 58, tạng Càn Long. Nội dung Kinh ở hai tạng giống nhau từng chữ. Kinh nói về lời dạy của Phật với vị cư sĩ Nan Đề và các vị đang có mặt về quả báo khi phạm năm giới của người tu tại gia. Người dịch xin thành kính tri ân Hòa thượng Thích Tịnh Thông, Dược Sư Phật Đường, Dartford, Anh Quốc; Phật tử Định Tuệ đã giúp đỡ trong việc tu học.
05/10/2019(Xem: 5520)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế. Bài kinh được ghi lại trong Kinh Tăng Chi Bộ, Chương 3, phẩm Đọa Xứ. Trước khi vào đề mục chính, chúng tôi giới thiệu khái quát về "Kinh Tăng Chi Bộ" này. Kinh Tăng Chi Bộ, tiếng Phạn là Anguttara Nikàya là bộ thứ Tư trong 5 bộ kinh tạng Pali: 1) Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya): 3 tập gồm 34 bài kinh 2) Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya): 3 tập gồm 152 bài kinh. 3) Kinh Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya): 5 tập gồm 2,958 bài kinh. 4) Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya): 3 tập gồm 9,557 bài kinh 5) Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya): 15 tập.
20/05/2019(Xem: 4345)
"Đại Kinh Xóm Ngựa" là bài kinh đức Thế Tôn giảng cho các vị Tỷ-kheo tại xã Assapura tức là xóm Ngựa nên gọi là "Kinh Xóm Ngựa". Bài kinh khá dài nên các Tổ xếp là "Đại Kinh"; chứ nội dung không hề đề cập gì đến loài ngựa. "Đại Kinh Xóm Ngựa" được ghi lại và sắp xếp trong Trung Bộ Kinh (Majjhiam Nikàya), số 39, phẩm "Đại Kinh Xóm Ngựa", do Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pàli sang Việt ngữ. Trong ba tháng An Cư Kiết Xuân - 2019, tại Thiền Viện Chân Như, Navasota tiểu bang Texas, chúng tôi được dịp học qua bài kinh này. Nay xin ghi lại để chia sẻ cùng quý Phật tử "Ý Nghĩa bài Kinh Xóm Ngựa" trong góc nhìn hạn hẹp của người học Thiền.
07/02/2019(Xem: 6130)
Morning Pali Chanting at Quang Duc Monastery, Melbourne, Australia (Thursday 7 February 2019)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567